Banner Tỉnh ủy Nghệ An (Home-latest-1)

Ngành tổ chức xây dựng Đảng: 90 năm xây dựng và trưởng thành

Ngày 14/10/2020, ngành Tổ chức xây dựng Đảng tròn 90 năm xây dựng và trưởng thành.

Theo lý thuyết và thực tế, công tác tổ chức xây dựng Đảng không phải khởi nguồn ngày 14/10/1930 mà là phải trước đó để chuẩn bị “tinh thần và lực lượng” cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngày 14/10/1930 là ngày Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ nhất họp tại Hương Cảng và thông qua Điều lệ Đảng, ghi rõ việc thành lập các bộ, trong đó có Bộ Tổ chức kiêm giao thông (tiền thân của Ban Tổ chức Trung ương ngày nay), đánh dấu một mốc son Đảng ta chuyên nghiệp hóa công tác tổ chức xây dựng đảng. Ngày đó sau này được chọn làm Ngày truyền thống của Ngành tổ chức xây dựng Đảng.

90 năm đã đi qua, trong mỗi giai đoạn cách mạng, công tác xây dựng Đảng đều đặt ra cho công tác tổ chức cán bộ những nhiệm vụ cụ thể đòi hỏi phải được đáp ứng kịp thời. Thông qua hoạt động thực tiễn, ngành Tổ chức xây dựng Đảng đã tham mưu giúp Đảng củng cố, phát triển tổ chức của hệ thống chính trị và tuyển chọn được những cán bộ, đảng viên, những chiến sĩ ưu tú, trung kiên cho Đảng, cho cách mạng, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng.

Trong sự trưởng thành chung của ngành tổ chức xây dựng Đảng toàn quốc, ngành tổ chức xây dựng Đảng tỉnh Nghệ An cũng đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần đắc lực thúc đẩy sự phát triển của Đảng bộ tỉnh nhà, riêng nhiệm kỳ 2015 - 2020, kết quả đạt được như sau:

- Về tham mưu công tác củng cố, kiện toàn sắp xếp tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên 

Trên cơ sở bám sát chỉ đạo của Trung ương và căn cứ tình hình thực tiễn của tỉnh nhà, ngành Tổ chức xây dựng Đảng Nghệ An đã tập trung tham mưu xây dựng, củng cố, phát triển tổ chức đảng, hệ thống chính trị đồng bộ với sắp xếp tổ chức bộ máy và sáp nhập các đơn vị hành chính, trọng tâm là nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và đảng viên. Trước hết bắt đầu từ xây dựng chi bộ, phát triển đảng viên. Các cấp ủy đã thực hiện nghiêm việc phân công các đồng chí cấp ủy viên, ủy viên ban thường vụ, bí thư, phó bí thư cấp ủy dự sinh hoạt với chi bộ dân cư; chất lượng sinh hoạt cấp ủy, sinh hoạt chi bộ được nâng lên. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả mô hình bí thư chi bộ đồng thời là khối trưởng, xóm trưởng gắn với khắc phục tình trạng khối trưởng, xóm trưởng không phải là đảng viên. Công tác phát triển đảng viên mới tiếp tục được chú trọng[1], nhất là ở vùng đồng bào tôn giáo, dân tộc thiểu số, các khối, xóm chưa có đảng viên, chưa có chi bộ và trong các loại hình doanh nghiệp. Tình trạng khối, xóm, thôn, bản chưa có tổ chức đảng, chưa có đảng viên từng bước được khắc phục[2]. Đến nay, Đảng bộ Nghệ An có 28 đảng bộ trực thuộc, trong đó có 21 đảng bộ huyện, thành, thị; 05 đảng bộ cấp trên cơ sở, 02 đảng bộ cấp cơ sở; 1.454 tổ chức cơ sở đảng, có 192.794 đảng viên[3]. Công tác quản lý đảng viên tiếp tục được coi trọng, cùng với đề cao trách nhiệm nêu gương, các cấp ủy đã thực hiện nghiêm việc rà soát, sàng lọc đưa ra khỏi Đảng những người không đủ tư cách đảng viên.

Tham mưu công tác đánh giá, xếp loại, khen thưởng tổ chức đảng, đảng viên hàng năm và nhận xét cán bộ cuối nhiệm kỳ được thực hiện nghiêm túc, kịp thời, khách quan và thực chất, đúng với quy định của Trung ương và Tỉnh ủy, đã gắn đánh giá trách nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là người đứng đầu với kết quả thực hiện nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị.

Công tác sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế của hệ thống chính trị theo tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW, Nghị quyết số 19-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII được thực hiện chặt chẽ, đồng bộ, từng bước khắc phục tình trạng hoạt động manh mún, dàn trải và trùng lắp giữa các cơ quan, đơn vị; nhiều mô hình thí điểm được triển khai và phát huy hiệu quả[4]. Công tác sắp xếp các đơn vị hành chính theo tinh thần Nghị quyết số 37-Q/TW, ngày 24/12/2018 của Bộ Chính trị được thực hiện quyết liệt, đúng tiến độ[5].

Việc thực hiện các khâu về công tác cán bộ được thực hiện ngày càng chặt chẽ, bảo đảm giữ vững nguyên tắc Đảng lãnh đạo và thống nhất quản lý công tác cán bộ: Công tác tuyển dụng công chức, viên chức thực hiện công khai, minh bạch, đúng quy định. Công tác đánh giá cán bộ, công chức được đổi mới theo hướng thường xuyên, đa chiều và theo tiêu chí cụ thể[6]. Công tác quy hoạch được thực hiện nền nếp, bảo đảm số lượng và có tính khả thi cao. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ngày càng thực chất, toàn diện, khắc phục tình trạng đào tạo tràn lan. Công tác bố trí, đề bạt, bổ nhiệm, luân chuyển cán bộ thường xuyên được quan tâm[7]; tiếp tục thực hiện tốt việc bố trí bí thư cấp ủy và một số chức danh khác không phải là người địa phương; chú trọng bố trí, điều động, luân chuyển cán bộ trẻ có triển vọng về địa phương, cơ sở để đào tạo, bồi dưỡng nguồn cán bộ kế cận lâu dài[8]; chủ động nguồn cán bộ nữ, cán bộ là người dân tộc thiểu số. Thực hiện đầy đủ, kịp thời chế độ, chính sách đối với cán bộ, đảng viên và người có công.

Công tác tham mưu chỉ đạo và hướng dẫn tổ chức đại hội Đảng cấp cơ sở, cấp huyện nhiệm kỳ 2020 - 2025 đảm bảo tiến độ, chất lượng theo các chỉ thị, quy định, hướng dẫn của Trung ương, của Ban Thường vụ Tỉnh ủy.

Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được thực hiện nghiêm túc, nhất là những vấn đề về “chính trị hiện nay”, góp phần nhận diện các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên. Công tác quản lý cán bộ, đảng viên ra nước ngoài, quan hệ với tổ chức, cá nhân người nước ngoài được thực hiện đúng quy định.

- Về phát huy vai trò nêu gương, tăng cường chống các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên; tăng cường kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, chống chạy chức, chạy quyền, kịp thời sàng lọc đội ngũ cán bộ để bố trí, sử dụng phù hợp.

Tham mưu và thực hiện nghiêm túc việc quán triệt, triển khai Nghị quyết số 04-NQ/TW, ngày 30/10/2016 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, gắn với thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW về "Tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và Quy định số 08-QĐ/TW, ngày 25/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên: cùng với việc tham mưu ban hành các hướng dẫn, kế hoạch để tổ chức thực hiện, định hướng, gợi ý kiểm điểm đối với các tập thể liên quan đến những vấn đề bức xúc, nổi cộm được dư luận quan tâm[9], Ban Tổ chức Tỉnh ủy tham mưu Ban Thường vụ Tỉnh ủy thường xuyên gương mẫu tự kiểm điểm và kiểm điểm theo Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII gắn với thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, trên tinh thần thẳng thắn, trách nhiệm; đề ra các giải pháp khắc phục của tập thể và cá nhân từng đồng chí; định kỳ 6 tháng, các tập thể, cá nhân phải đánh giá kết quả khắc phục những hạn chế, khuyết điểm đã được chỉ ra qua kiểm điểm cuối năm, đề ra giải pháp, lộ trình khắc phục khuyết điểm mới phát sinh hoặc chưa được khắc phục. Thường xuyên theo dõi, đôn đốc, giám sát, kiểm tra và thẩm định chặt chẽ việc tổ chức thực hiện Nghị quyết, Chỉ thị tỉnh đến cơ sở. Do đó, việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và thực hành nêu gương của cán bộ, đảng viên được thực hiện nghiêm túc[10], giúp cho đại đa số cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp vững vàng hơn về bản lĩnh chính trị, gương mẫu trong việc chấp hành các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao; đã có nhiều tấm gương, điển hình[11], củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, tạo sự thống nhất về nhận thức, hành động.

         Kịp thời quán triệt, chỉ đạo và tổ chức thực hiện nghiêm túc Quy định số 205-QĐ/TW của Bộ Chính trị về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền để lựa chọn được cán bộ tốt, sàng lọc cán bộ có động cơ cơ hội, thực dụng,…thông qua những việc làm cụ thể, như: xây dựng tiêu chuẩn cán bộ sát thực, cụ thể, phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ, không để lọt những cán bộ không đạt yêu cầu; đánh giá cán bộ khách quan, chính xác (đánh giá quá trình công tác, kết quả và những thành tích, sản phẩm đạt được trong từng vị trí công tác để cung cấp thông tin cho những người có thẩm quyền quyết định (kể cả những người bỏ phiếu) có đầy đủ căn cứ thực hiện tốt thẩm quyền của mình); thực hiện đúng các quy trình công tác cán bộ, phát huy dân chủ một cách thực chất; phát huy vai trò của các cơ quan kiểm tra, thanh tra trong kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền lực,…

         - Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng còn có một số hạn chế như: Hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng còn hạn chế, tính định hướng chính trị, tính chiến đấu và sức thuyết phục chưa cao. Việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh ở một số địa phương, đơn vị chưa thực sự đi vào chiều sâu; vai trò nêu gương của một số cán bộ, đảng viên còn hạn chế. Chất lượng sinh hoạt đảng một số nơi chưa cao, tính chiến đấu trong tự phê bình và phê bình có lúc, có nơi còn yếu. Công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên ở một số nơi chưa được quan tâm thường xuyên; số lượng, chất lượng kết nạp đảng viên mới còn hạn chế, tình trạng xóa tên ra khỏi danh sách đảng viên vẫn còn nhiều. Một bộ phận cán bộ, đảng viên bản lĩnh chính trị thiếu vững vàng, giảm sút ý chí chiến đấu, ngại đấu tranh, chấp hành không nghiêm Điều lệ, nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của Đảng. Đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị các cấp nhiều nhưng chưa mạnh, cơ cấu ngành, lĩnh vực chưa hợp lý. Việc sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế ở một số địa phương, đơn vị còn thiếu kiên quyết, nể nang, ngại va chạm. Một số cấp ủy chưa tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện việc kiểm tra, giám sát ở các nội dung, lĩnh vực dễ phát sinh sai phạm. Qua kết quả tham mưu của ngành cho thấy, công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận mặc dù được quan tâm hơn, nhưng hiệu quả chưa cao; công tác nắm tình hình, năng lực nghiên cứu, dự báo có mặt còn hạn chế.

         - Từ thực tiễn nêu trên, để phát huy kết quả, khắc phục hạn chế, tiếp tục phát huy truyền thống, trong thời gian tới ngành tổ chức xây dựng Đảng Nghệ An tập trung các nhiệm vụ quan trọng sau đây:

          Thứ nhất, “cán bộ là gốc của mọi công việc”, “muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Vì vậy, phải tiếp tục chăm lo xây dựng đội ngũ làm công tác tổ chức xây dựng đảng đủ đức, đủ tài, “Bản lĩnh, trách nhiệm, trung thực, khách quan, chủ động, sáng tạo, chất lượng, hiệu quả”. Chăm lo bắt đầu từ việc lựa chọn đầu vào, đến bố trí công việc phù hợp chuyên môn, kinh nghiệm công tác và khả năng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ theo tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm, theo nguyên tắc “vì việc để chọn người”. Quan tâm đào tào, bồi dưỡng, chính sách cán bộ, …, tạo điều kiện  để cán bộ yên tâm công tác, phấn đấu, trưởng thành. Đồng thời xiết chặt kỷ cương, kỷ luật, kịp thời uốn nắn khi cán bộ có dấu hiệu, biểu hiện thiếu gương mẫu, giảm ý chí trong công tác và rèn luyện.

         Thứ hai, Tiếp tục quán triệt sâu sắc và kịp thời cụ thể hóa các nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn của Trung ương phù hợp với thực tế địa phương, trong đó xác định rõ những nhiệm vụ trọng tâm để tập trung tham mưu. Nhiệm kỳ 2020 -2025, ngành Tổ chức xây dựng Đảng xác định một số nhiệm vụ cần tập trung là tiếp tục tham mưu: sắp xếp tổ chức bộ máy, cơ cấu đội ngũ biên chế hợp lý, tinh gọn, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động theo Nghị quyết số 18, 19-NQ/TW, ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương, Đề án số 09-ĐA/TU, ngày 18/4/2018 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy; tập trung nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, đảng viên, trong đó chú trọng là nâng cao chất lượng cấp ủy, chấn chỉnh phong cách, lề lối làm việc, chế độ sinh hoạt đảng; chăm lo công tác tạo nguồn, phát triển đảng viên, xây dựng, củng cố tổ chức đảng, nhất là vùng đặc thù, vùng đồng bào có đạo, vùng dân tộc thiểu số và trong các loại hình doanh nghiệp; tăng cường công tác quản lý đảng viên trên tất cả các mặt chính trị, tư tưởng, thực hiện nhiệm vụ chính trị nơi công tác, nơi cư trú; tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác cán bộ và đội ngũ cán bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt có tư duy đổi mới, khát vọng phát triển, dám nghĩ, dám làm và dám đương đầu với khó khăn, thách thức; quan tâm tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ, phát huy vai trò các cơ quan liên quan trong nắm thông tin, dự báo tình hình và phối hợp thực hiện rà soát tiêu chuẩn chính trị của cán bộ, đảng viên, nhất là những trường hợp có liên quan đến yếu tố nước ngoài,…

         Thứ ba, quan tâm công tác đúc rút kinh nghiệm từ thực tiễn để nâng cao chất lượng công tác tham mưu. Thời gian qua, nội dung này đã được quan tâm nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra. Trong thời gian tới Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Ban Tổ chức cấp ủy cấp huyện tăng cường việc khái quát, rút kinh nghiệm từ thực tiễn, tập trung những nội dung, nhiệm vụ còn nhiều khó khăn, vướng mắc để kịp thời đề xuất giải pháp khắc phục; phương pháp, cách làm phải đảm bảo tính loogic, thường xuyên, có hệ thống,…  

90 năm - một chặng đường dài đã đi qua, chặng đường phía trước có nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn, thách thức. Để viết tiếp những trang sử đỏ của ngành, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên ngành tổ chức đảng phải vững niềm tin, bản lĩnh, trách nhiệm, tận tụy, tinh thông, không ngừng cố gắng, nêu cao quyết tâm hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao. Bên cạnh đó, sự quan tâm của lãnh đạo, cấp ủy các cấp là yếu tố rất quan trọng.

        Phạm Thi Thanh Giang 

                                                           Ban Tổ chức Tỉnh ủy 

 


[1] Từ năm 2015 đến nay tỉnh đã kết nạp 26.356 đảng viên, bình quân mỗi năm kết nạp 5.271 đảng viên mới. Trong đó kết nạp 76 đảng viên có tôn giáo; 4.317 đảng viên là người dân tộc thiểu số.

[2] Qua 04 năm thực hiện Đề án  số 01-ĐA/TU, ngày 10/8/2016, của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh,  toàn tỉnh đã giảm 38 xóm trắng chi bộ (không còn xóm trắng chi bộ); có 13 xóm trắng đảng viên kết nạp được đảng viên tại chỗ; 12 xóm kết nạp đủ đảng viên tại chỗ để thành lập chi bộ độc lập; 85  xóm thoát khỏi diện nguy cơ không còn chi bộ.

       [3] Tính đến 31/3/2020. Cuối năm 1930, cả Nghệ Tĩnh có 17 đảng bộ huyện, 1.172 đảng viên.

[4] 100% huyện, thành, thị ủy thực hiện chủ trương trưởng ban tuyên giáo đồng thời là giám đốc trung tâm bồi dưỡng chính trị; 08/21 đơn vị thực hiện thí điểm trưởng ban dân vận đồng thời là chủ tịch Ủy ban MTTQ cấp huyện; 2/21 đơn vị cấp huyện đã thực hiện thí điểm trưởng ban tổ chức cấp ủy đồng thời là trưởng phòng nội vụ; chủ nhiệm ủy ban kiểm tra cấp ủy đồng thời là chánh thanh tra. Đối với cấp tỉnh, đã triển khai sắp xếp bộ máy của các ban xây dựng Đảng và thực hiện mô hình Văn phòng phục vụ chung cấp ủy và các cơ quan tham mưu, giúp việc của Tỉnh ủy; triển khai sắp xếp lại cơ chế hoạt động của Ban Bảo vệ chăm sóc sức khỏe cán bộ tỉnh.

      [5] Sau sắp xếp về bộ máy, tỉnh đã giảm 3 chi cục và 35 phòng, ban các sở, ban, ngành cấp tỉnh và UBND cấp huyện; giảm 125 đơn vị sự nghiệp công lập; có 23 đơn vị sự nghiệp công lập chuyển sang cơ chế tự chủ, Nhà nước không cấp ngân sách cho 4.432 biên chế. Toàn tỉnh đã giảm được 343 biên chế công chức; giảm 2.762 viên chức có 4.424 biên chế; giảm 20 đơn vị hành chính cấp xã và 1991 xóm….

        [6] Từ năm 2015 đến nay, Quy chế đánh giá cán bộ của tỉnh được điều chỉnh, bổ sung 2 lần, gắn với quy chế nêu gương của cán bộ, đảng viên. Quy trình đánh giá cán bộ được đổi mới, cụ thể hóa thành các bước thực hiện công khai, mở rộng dân chủ, xác định rõ trách nhiệm của tập thể, cá nhân, nhất là người đứng đầu cấp ủy trong đánh giá cán bộ, gắn với phân tích chất lượng đảng viên hằng năm.  

[7] Từ sau đại hội đến nay, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã kiện toàn, bổ sung 02 đ/c Bí thư Tỉnh ủy; 01 đ/c Phó Bí thư Tỉnh ủy; 02 đ/c Phó Bí thư, Chủ tịch UBND tỉnh; 03 đ/c chí Phó Chủ tịch UBND tỉnh; 19 đ/c Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh; 09 đ/c Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy; đề bạt, bổ nhiệm, chuẩn y giới thiệu bầu cử cho 351 trường hợp là cán bộ diện Tỉnh ủy quản lý; hiệp y bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, giới thiệu ứng cử các chức danh lãnh đạo, quản lý các cơ quan Trung ương đóng trên địa bàn có tổ chức đảng trực thuộc cho 191 trường hợp.

      [8] Trong 5 năm, toàn tỉnh đã luân chuyển, điều động 37 cán bộ từ tỉnh về huyện và từ huyện, cấp tương đương về tỉnh 8 đồng chí; điều động sang các sở ngành 17 đ/c; đưa từ huyện về xã 55 đ/c và từ xã về huyện 39 đ/c.

[9] Tỉnh ủy gợi ý kiểm điểm 10 tập thể (03 BTV cấp ủy trực thuộc và 7 sở, ban, ngành cấp tỉnh). Có 20/29 BTV cấp ủy cấp trên cơ sở gợi ý kiểm điểm đối với 302 đảng ủy, chi ủy cơ sở, tập thể lãnh đạo cơ quan, ban, ngành, đơn vị trực thuộc; 96 đảng ủy cơ sở gợi ý kiểm điểm đối với 386 chi bộ, tập thể lãnh đạo đơn vị trực thuộc và 21 cá nhân liên quan.

[10] 100% cán bộ chủ chốt cấp tỉnh, cấp huyện đều xây dựng bản cam kết nêu gương của bản thân  hàng năm. Các đồng chí Thường trực Tỉnh ủy, Ủy viên BTV Tỉnh ủy đã đăng ký nêu gương tại chi bộ mình sinh hoạt.

[11] Trong 05 năm qua,  có 3.215 tập thể, 6.326 cá nhân được biểu dương, khen thưởng ở cấp huyện; 64 tập thể và 83 cá nhân được biểu dương, khen thưởng ở cấp tỉnh; 07 tập thể, 13 cá nhân được TW biểu dương, khen thưởng.  

Tin cùng chuyên mục

Những chặng đường cách mạng vẻ vang của Đảng bộ tỉnh Nghệ An (phần cuối)

Những chặng đường cách mạng vẻ vang của Đảng bộ tỉnh Nghệ An (phần cuối)


Những chặng đường cách mạng vẻ vang của Đảng bộ tỉnh Nghệ An (tiếp theo)

Những chặng đường cách mạng vẻ vang của Đảng bộ tỉnh Nghệ An (tiếp theo)


Những chặng đường cách mạng vẻ vang của Đảng bộ tỉnh Nghệ An

Những chặng đường cách mạng vẻ vang của Đảng bộ tỉnh Nghệ An


Những nhân tố ảnh hưởng đến việc hình thành tư tưởng yêu nước, cách mạng của đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai

Những nhân tố ảnh hưởng đến việc hình thành tư tưởng yêu nước, cách mạng của đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai



Một số hoạt động tiêu biểu của Đảng bộ Nghệ An từ khi thành lập đến nay

Một số hoạt động tiêu biểu của Đảng bộ Nghệ An từ khi thành lập đến nay





Phông lưu trữ Đảng bộ tỉnh Nghệ An: “di sản vô cùng quý báu của Đảng và của dân tộc”

Phông lưu trữ Đảng bộ tỉnh Nghệ An: “di sản vô cùng quý báu của Đảng và của dân tộc”