Khắc sâu những di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng bộ, quân và Nhân dân các dân tộc Nghệ An đã đoàn kết, đồng thuận phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị tỉnh nhà đạt được nhiều thành quả quan trọng.
Nghệ An là tỉnh có diện tích lớn nhất cả nước, với 16.487 km2, trong đó diện tích vùng miền núi là 13.745 km2, chiếm 83% diện tích tự nhiên toàn tỉnh, địa hình chia cắt, thiên nhiên khắc nghiệt; dân số 3.549.000 người, đồng bào dân tộc thiểu số có 491.295/3.327.791 người, với các dân tộc Thái, Thổ, Khơ Mú, Mông, Ơ Đu, chiếm 40,9% dân số trên địa bàn miền núi và chiếm 14,76% dân số toàn tỉnh; có đường biên giới dài 468,281 km, đường bờ biển dài 82 km. Trên địa bàn tỉnh hiện có 02 tổ chức tôn giáo hợp pháp là Công giáo và Phật giáo: Công giáo có 292.329 tín đồ; 212 chức sắc gồm 2 giám mục và 210 linh mục; có Tòa giám mục Giáo phận Vinh; 366 nhà thờ xứ, họ đạo (14 hạt, 115 giáo xứ, 251 giáo họ, không tính họ nhà xứ) ở 174/460 xã, phường, thị trấn của 17 huyện, thành phố, thị xã; 04 huyện còn lại (là huyện miền núi rẻo cao với gần 1.000 tín đồ); 03 dòng tu hợp pháp (Hội dòng Mến Thánh giá Giáo phận Vinh với 06 cơ sở, gần 900 nữ tu; Hội dòng Thừa sai Bác Ái Giáo phận Vinh với 19 cơ sở, gần 600 nữ tu; dòng Anton Padova với 86 tu sỹ). Phật giáo có khoảng 169.000 tín đồ, 70 chùa, 01 niệm Phật đường (41 chùa đã có sư trụ trì) ở 14 huyện, thành phố, thị xã (có 01 thị xã, 06 huyện trung du miền núi chưa có chùa nhưng có địa phương đã có đạo tràng), 105 tăng, ni, tu sĩ (trong đó có 31 sư trụ trì các chùa).
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định tầm vóc to lớn, quan trọng của vấn đề đoàn kết trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Người đã nhiều lần nhấn mạnh: "Đoàn kết là một lực lượng vô địch của chúng ta để khắc phục khó khăn, giành thắng lợi"(1). "Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công"(2). Chính vì vậy, phải luôn luôn giữ gìn khối đại đoàn kết (chìa khóa vạn năng) giúp cho Đảng ta hơn 94 năm chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ đến với bến bờ vinh quang. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm xây dựng khối đại đoàn kết nói chung và với Nghệ An nói riêng. Trong những bức thư, bài viết, bài nói chuyện Người không quên căn dặn các cán bộ, đảng viên, đồng bào, đồng chí tỉnh nhà luôn phải coi trọng vấn đề đoàn kết. Những căn dặn đó là tài sản tinh thần có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự lãnh đạo của Đảng bộ Nghệ An lúc bấy giờ và vẫn mãi mãi còn nguyên giá trị cả lý luận và thực tiễn.
Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 17/9/1945, Bác Hồ đã gửi “Thư gửi các đồng chí tỉnh nhà”. Bác nêu nguyên nhân thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám “Vì sao có cuộc thắng lợi đó? Một phần vì tình hình quốc tế thuận tiện cho ta. Nhất là vì lực lượng của cuộc toàn dân đoàn kết... Lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn hết. Không ai chiến thắng được lực lượng đó”. Vì vậy, Người khẳng định “... chúng ta cố mà theo cho đúng sách của Chính phủ, thì nhất định chúng ta vượt qua hết thảy những sự khó khăn đó”. Và Người yêu cầu: “chính sách của Chính phủ là: Củng cố sự đoàn kết toàn dân/Sửa đổi những khuyết điểm khắp các phương diện... Mãi đến năm 1957, Bác Hồ mới có dịp về thăm quê hương lần thứ nhất, sau hơn 50 năm xa cách.
"Quê hương nghĩa trọng tình cao
Năm mươi năm ấy biết bao là tình!"(3)
Về thăm quê lần này, tại buổi nói chuyện với Hội nghị đại biểu nhân dân Nghệ An ngày 14 tháng 6 năm 1957, Bác khẳng định: "Chúng ta có thể nói rằng:
Chúng ta đoàn kết một nhà,
Ấy là nghĩa trọng, ấy là tình sâu."(4)
"Trong kháng chiến, tỉnh nhà có hơn 8 vạn thanh niên vào bộ đội, hơn 1 vạn 5 ngàn dân quân du kích, hơn 1 triệu dân công phục vụ kháng chiến, trong đó có 96 đơn vị và cá nhân đã có thành tích vẻ vang và được Chính phủ khen thưởng... Do sự đoàn kết và cố gắng ấy mà tỉnh ta đã góp một phần xứng đáng vẻ vang trong cuộc kháng chiến thắng lợi."(5)
"Bây giờ tôi nêu lên mấy nhiệm vụ cụ thể, mong đồng bào chú ý thực hành:
1- Đồng bào ủng hộ việc sửa sai cho tốt, cho nhanh...
2- Đồng bào có tán thành xây dựng nhà máy và công trình thủy lợi không?...
3- Một điều nữa là phải tăng gia sản xuất và tiết kiệm...
4- Phải sẵn sàng để chống lụt, chống bão...
5- Tỉnh ta đã có truyền thống và có tiếng là có thuần phong mỹ tục. Chúng ta phải phát triển và giữ gìn thuần phong mỹ tục đó...
6- Để làm những việc trên đây, chúng ta phải thật thà đoàn kết. Trong kháng chiến, trong cách mạng, nhờ đoàn kết mà chúng ta đã thắng lợi. Trong hòa bình, chúng ta nhất định phải đoàn kết để giành lấy những thắng lợi mới và lớn lao hơn. Đoàn kết lương giáo, đoàn kết Bắc Nam, đoàn kết đồng bào thiểu số và đồng bào Kinh, đoàn kết quân và dân."(6)
Năm 1961, Đảng bộ và Nhân dân Nghệ An vinh dự được đón Bác Hồ về thăm quê lần thứ hai. Ngày 08/12/1961, Bác làm việc với Tỉnh ủy Nghệ An và nhắc nhở:"Tất cả cái gì quốc kế dân sinh ở Nghệ An là các cô, các chú phụ trách. Muốn như thế thì phải nắm vững nguyên tắc gì?
Một là, nguyên tắc đoàn kết nội bộ.
Hai là, nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách..."(7)
Sáng ngày 09/12/1961, nói chuyện với cán bộ và đồng bào tỉnh Nghệ An, Bác khẳng định: "Các cấp ủy đảng lãnh đạo tốt, đồng bào và cán bộ đoàn kết nhất trí và phấn khởi thi đua, chúng ta nhất định hoàn thành và hoàn thành vượt mức mọi kế hoạch mà Đảng và Chính phủ giao phó"(8).
Khắc sâu những di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng bộ, quân và Nhân dân các dân tộc Nghệ An đã đoàn kết, đồng thuận phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị tỉnh nhà đạt được nhiều thành quả quan trọng. Trong những năm qua, Khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức tỉnh Nghệ An ngày càng được tăng cường. Các cấp ủy đảng, chính quyền đã thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, ban hành cơ chế, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống của Nhân dân; quan tâm đến các đối tượng yếu thế trong xã hội; đối xử công bằng, bình đẳng giữa các tôn giáo, giữa người theo tôn giáo và người không theo tôn giáo.
Sức mạnh của đoàn kết toàn dân đã được Tỉnh ủy cụ thể hóa, thể chế hóa thành những nghị quyết, chỉ thị, kết luận sát hợp với đặc điểm tình hình, điều kiện, gắn với quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của các giai cấp, tầng lớp xã hội. Ngay sau khi có Nghị quyết số 23, 24, 25 của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 (khóa IX) về đại đoàn kết toàn dân tộc; về công tác dân tộc; về công tác tôn giáo, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã xây dựng Chương trình hành động số 16-CTr/TU, ngày 01/7/2003 về chương trình hành động thực hiện các nghị quyết số 23, 24, 25 của Hội nghị TW7 (khóa IX). Tổ chức sơ kết 5 năm, tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết TW7 (khóa IX) về đại đoàn kết, về công tác dân tộc, công tác tôn giáo từ cơ sở đến tỉnh. Nhằm tạo sự đoàn kết, đồng thuận cao trong Nhân dân, ngày 23/10/2007, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TU về "Tăng cường công tác dân vận trước yêu cầu mới", sau đó triển khai thực hiện có hiệu quả tận chi bộ; ban hành Chỉ thị số 14-CT/TU (năm 2008) về "Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong thực hiện QCDC ở cơ sở", thông qua Chỉ thị này nhằm công khai, dân chủ, minh bạch các chủ trương, chính sách, các khoản dân đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng để tạo sự đoàn kết trong các khu dân cư, đẩy nhanh tiến độ xây dựng quê hương. Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành Chỉ thị số 20-CT/TU (2014) về xây dựng, củng cố hệ thống chính trị vùng giáo. Để triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 03/6/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về "Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới", Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Chương trình hành động số 25-CTr/TU ngày 20/11/2013 về thực hiện Nghị quyết 25-NQ/TW trên địa bàn Nghệ An với 5 đề án về công tác dân vận được triển khai thực hiện hiệu quả.
Tỉnh ủy đã quan tâm lãnh đạo các tổ chức trong hệ thống chính trị đổi mới, đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, vận động Nhân dân, nhất là trong việc vận động Nhân dân thực hiện các chủ trương lớn, các nhiệm vụ chính trị trọng tâm. Khối dân vận, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội đã tăng cường bám sát cơ sở, kịp thời nắm bắt tình hình Nhân dân để tuyên truyền, vận động Nhân dân tích cực tham gia lao động, sản xuất kinh doanh, góp phần phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội sau đại dịch Covid-19, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Nhân dân đã tự nguyện hiến đất, tài sản trên đất, đóng góp hàng nghìn tỷ đồng, hàng triệu ngày công để làm đường giao thông nông thôn, thủy lợi nội đồng, xây dựng cơ sở hạ tầng...
Các cấp ủy đảng đã đổi mới việc quán triệt, triển khai thực hiện hiệu quả các chủ trương, nghị quyết của Đảng về công tác dân vận, đó là nêu gọn, rõ, trọng tâm, gắn với xây dựng chương trình hành động thực hiện nghị quyết, nhất là đối với các chủ trương, nghị quyết quan trọng có tính trọng tâm, xuyên suốt. Năm 2023, Thường trực Tỉnh ủy tổ chức Chương trình gặp mặt, đối thoại với 1.022 bí thư, chủ tịch HĐND, UBND của 460 xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh, qua đó trực tiếp trao đổi thông tin tình hình của tỉnh, nắm bắt và chỉ đạo giải quyết các kiến nghị, đề xuất của cơ sở.
Công tác dân vận tập trung hướng về cơ sở, gần dân, sát dân, hướng dẫn dân làm, cán bộ nêu gương để dân tin, noi theo. Tỉnh ủy đã chỉ đạo cấp ủy viên các cấp và cán bộ công tác tại xã về sinh hoạt chi bộ ở khu dân cư; định kỳ, bí thư đảng ủy, chủ tịch HĐND, chủ tịch UBND cấp xã đối thoại với nhân dân, từ đó đã góp phần giải quyết các vấn đề bức xúc nổi cộm ở cơ sở.
Cán bộ trong hệ thống chính trị đã thường xuyên bám sát cơ sở, tin dân, trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân và có trách nhiệm với dân. Định kỳ, thông qua việc tiếp dân, đối thoại trực tiếp với Nhân dân, cán bộ các cấp đã giải quyết kịp thời các kiến nghị, đề xuất của nhân dân, tạo bầu không khí dân chủ, cởi mở, tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng, chính quyền với người dân, củng cố niềm tin của Nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Thường xuyên chú trọng việc thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở gắn với Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị. Phát huy dân chủ trong việc lãnh đạo, chỉ đạo các nhiệm vụ chính trị, công tác tổ chức, giám sát, đánh giá cán bộ, từ đó tạo được sự đồng thuận, tự nguyện tham gia tích cực, hiệu quả của người dân.
Việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ cơ sở của các địa phương, đơn vị có nhiều chuyển biến tích cực, 100% cơ quan, đơn vị đã ban hành, triển khai thực hiện nghiêm túc các quy chế, quy định. Các cấp ủy đã tập trung chỉ đạo đổi mới và nâng cao nhận thức, phát huy vai trò, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu trong việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ cơ sở. Tăng cường nâng cao hiệu quả công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, chú trọng đối thoại giữa người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp với nhân dân, góp phần giảm thiểu đáng kể số đơn, thư phản ánh, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của người dân theo từng năm.
Việc thể chế hóa, cụ thể hóa mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”, thực hành và phát huy rộng rãi quyền làm chủ của Nhân dân và vai trò chủ thể của Nhân dân được thực hiện tốt, có hiệu quả. Nhân dân thực hiện tốt quyền làm chủ của mình qua thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, nhất là các quy định về dân chủ trực tiếp, dân được biết, được bàn, được quyết định. Phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” được cụ thể hóa trên nhiều lĩnh vực đời sống xã hội.
Công tác dân vận của hệ thống chính trị của tỉnh có nhiều chuyển biến tích cực; các cấp ủy đảng, chính quyền và các tổ chức trong hệ thống chính trị đã tập trung quán triệt, triển khai cụ thể hóa, thể chế hóa kịp thời các chủ trương, nghị quyết của Trung ương. Nội dung, phương thức vận động quần chúng có nhiều đổi mới, sát thực, hiệu quả; gắn tuyên truyền, vận động với chăm lo lợi ích thiết thực của Nhân dân. Công tác dân vận chính quyền được quan tâm và có nhiều chuyển biến tốt. Các cấp chính quyền đã chuyển biến nhận thức từ chính quyền quản lý sang chính quyền phục vụ; đẩy mạnh công tác dân vận các cơ quan nhà nước; lựa chọn và triển khai hiệu quả “Năm dân vận chính quyền” “Năm cải cách hành chính”. Các chỉ số đánh giá có nhiều chuyển biến tích cực, năm sau tốt hơn năm trước. Tinh thần, trách nhiệm của cán bộ, công chức các cơ quan Nhà nước trong thực hiện nhiệm vụ được nâng lên, đáp ứng kịp thời các yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của người dân.
Vai trò giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội ngày càng được phát huy tốt hơn. Nội dung giám sát, phản biện tập trung vào những vấn đề bức thiết đặt ra gắn với quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của Nhân dân. Từ năm 2021 đến nay, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội của tỉnh đã giám sát 89.600 cuộc, phản biện xã hội 28.507 cuộc. Thực hiện việc giám sát cán bộ, đảng viên, nhất là giám sát về việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt, từ đó vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội trong đánh giá cán bộ, đảng viên được phát huy; ý kiến nhận xét của Nhân dân được tôn trọng.
Khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức ngày càng được tăng cường. Các cấp ủy đảng, chính quyền đã thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, ban hành cơ chế, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống của Nhân dân; quan tâm đến các đối tượng yếu thế trong xã hội; đối xử công bằng, bình đẳng giữa các tôn giáo, giữa người theo tôn giáo và người không theo tôn giáo.
Nhờ phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và sự đồng thuận cao trong Nhân dân, 6 tháng đầu năm 2024, Đảng bộ và Nhân dân tỉnh Nghệ An tiếp tục đạt nhiều kết quả quan trọng, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) ước đạt 6,76% cao hơn cùng kỳ năm 2023 (6,15%), đứng thứ 3 khu vực Bắc Trung bộ và thứ 26 cả nước. Kết quả thu hút đầu tư tiếp tục đạt kết quả khá tích cực. Các công trình, dự án trọng điểm được tập trung chỉ đạo, đôn đốc, phối hợp đẩy nhanh tiến độ. Đến nay, toàn tỉnh có 319/411 xã đạt chuẩn NTM, chiếm 77,62%; 83/319 xã đạt chuẩn NTM nâng cao; 12/319 xã đạt chuẩn NTM kiểu mẫu; có 09 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn xây dựng NTM. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân, phòng chống các dịch bệnh được chú trọng; lĩnh vực lao động, việc làm, an sinh xã hội thường xuyên được quan tâm, Chương trình vận động, hỗ trợ xây dựng, sửa chữa nhà cho người nghèo, người khó khăn về nhà ở giai đoạn 2023-2025 tiếp tục đạt nhiều kết quả tích cực, đến nay toàn tỉnh đã đã hỗ trợ xây mới và sửa chữa được 8.440/12.000 nhà, vượt kế hoạch đề ra. Hoàn thành tốt nhiệm vụ năm học 2023-2024, các kỳ thi được triển khai nghiêm túc, an toàn; tiếp tục giữ vững thành tích giáo dục mũi nhọn. Tổ chức tốt các sự kiện, ngày lễ trọng đại của tỉnh, của đất nước. Công tác cải cách hành chính, chỉ đạo, điều hành của các đơn vị, địa phương có nhiều đổi mới, theo hướng quyết liệt, hiệu quả và đã tạo nên nhiều chuyển biến quan trọng. Chủ động, tích cực phối hợp các cơ quan Trung ương để trình Quốc hội phê duyệt Nghị quyết về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển tỉnh Nghệ An; trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch thực hiện Quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Hoàn thành các quy trình, thủ tục nhiều đề án quan trọng của tỉnh để trình Trung ương xem xét, quyết định. Quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội bảo đảm ổn định; công tác tiếp công dân, giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo được thực hiện nghiêm túc. Hoạt động đối ngoại được quan tâm chỉ đạo, đổi mới, thực hiện có hiệu quả.
Một số bài học kinh nghiệm:
Thứ nhất là: Cần nhận thức sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng khối đại đoàn kết và các quan điểm đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng; xây dựng khối đại đoàn kết là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng tỉnh Nghệ An giàu mạnh. Đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị.
Thứ hai là: Phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm "Dân là gốc"; tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; kiên trì thực hiện phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng". Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ yêu cầu, nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; lấy hạnh phúc, ấm no của Nhân dân làm mục tiêu phấn đấu, củng cố và tăng cường niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba là: Cần mở rộng và đa dạng hoá các hình thức tập hợp Nhân dân. Phát huy vai trò của các nhân sỹ, trí thức, người có uy tín làm hạt nhân trong công tác tuyên truyền, vận động, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Phát huy tinh thần sáng tạo và tự quản của Nhân dân; chú trọng xây dựng các cộng đồng dân cư tự quản ở các khối, xóm, bản, nâng cao hiệu quả hoạt động của ban công tác mặt trận, các chi hội, chi đoàn ở khu dân cư, góp phần xây dựng khối đại đoàn kết từ địa bàn cơ sở.
Thứ tư là: Đổi mới nội dung, hình thức tuyên truyền, từng bước thực hiện chuyển đổi số trong công tác tuyên truyền, vận động Nhân dân. Các phong trào thi đua yêu nước cần được tổ chức hiệu quả thiết thực, phù hợp với nhu cầu, nguyện vọng, đặc điểm của từng giới, giai cấp, tầng lớp.
Thứ năm là: Quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp, nhất là người đứng đầu có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức trong sáng, lối sống lành mạnh, có trình độ, năng lực nổi trội, luôn đổi mới, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, tiên phong, gương mẫu, là hạt nhân đoàn kết vì sự nghiệp chung. Chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng và bố trí sắp xếp đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội; công tác dân tộc, công tác tôn giáo, ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Thứ sáu là: Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện nghị quyết của Đảng về phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, nhằm phát huy ưu điểm, kịp thời khắc phục những hạn chế, khuyết điểm, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc từ cơ sở trong quá trình thực hiện; phát hiện, tổng kết những cách làm hay, các mô hình hiệu quả để xây dựng và chỉ đạo nhân rộng.
Có thể khẳng định, những lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với quê hương sẽ mãi còn nguyên giá trị đối với nhiều thế hệ cách mạng, để Đảng bộ Nghệ An không ngừng rèn luyện, phấn đấu, thực hiện hiệu quả trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân đảm bảo mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với Nhân dân góp phần xây dựng quê hương, đất nước ngày càng giàu mạnh, văn minh./.
Phan Thanh Đoài, Phó Trưởng ban Dân vận Tỉnh ủy
1, 2, 3, 4, 5, 6. Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
7, 8. Những bức thư, bài viết, bài nói chuyện của Bác Hồ với quê hương Nghệ An, Nxb.Nghệ An, 2007, Tr.100, 112.