Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) là một chặng đường với đột phá của các công nghệ số dẫn đến sự thông minh hóa mọi mặt của xã hội. Chuyển đổi số hiện đang là xu hướng tất yếu, là vấn đề sống còn đối với các quốc gia, tổ chức, doanh nghiệp và người tiêu dùng trên toàn thế giới. Chuyển đổi số chính là cách đi trong chặng đường phát triển thời CMCN 4.0, và là cơ hội vô giá để phát triển đất nước.
Chuyển đổi số (Digital Transformation) là khái niệm ra đời trong thời đại internet bùng nổ, đang trở nên phổ biến trong thời gian gần đây, mô tả việc ứng dụng công nghệ số (digitalize) vào tất cả các khía cạnh của cuộc sống. Nếu đạt hiệu quả, hoạt động này sẽ thay đổi toàn diện (transformation) cách thức mà một chủ thể hoạt động, tăng hiệu quả hợp tác, tối ưu hóa hiệu suất làm việc và mang lại giá trị cho đối tượng thụ hưởng. Chuyển đổi số thay đổi cách thức làm việc từ thủ công như ghi chép sách vở truyền thống, hội họp trực tiếp sang ứng dụng công nghệ phần mềm để giảm thiểu nhân sự lao động. Ngoài ra, chuyển đổi số đóng vai trò thay đổi tư duy kinh doanh, phương thức điều hành, văn hóa tổ chức,... Trong cơ quan hành chính công, chuyển đổi số là quá trình chuyển đổi các quy trình, dịch vụ và thông tin của chính phủ sang môi trường trực tuyến, thông qua việc sử dụng các công nghệ số như Internet, điện thoại di động, và các ứng dụng điện tử. Một số ví dụ như phát triển chính quyền số, đô thị thông minh... Mục đích của chuyển đổi số hành chính công là tăng cường tính minh bạch, hiệu quả và tiện lợi trong việc cung cấp các dịch vụ công và tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi hơn. Cụ thể như: Hệ thống quản lý văn bản điện tử, hệ thống quản lý hồ sơ điện tử, cổng thông tin điện tử, hệ thống quản lý dịch vụ công trực tuyến, hệ thống xếp hàng tự động...
Nghệ An là địa phương đã kịp thời ứng dụng công nghệ số và đạt nhiều kết quả tích cực. Ngày 05/8/2022, Tỉnh ủy đã ban hành Nghị quyết số 09-NQ/TU về chuyển đổi số tỉnh Nghệ An đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 586/KH-UBND ngày 22/8/2022 về chuyển đổi số tỉnh Nghệ An đến năm 2025 và 14 kế hoạch, 06 quyết định để thực hiện các nhiệm vụ về chuyển đổi số. 100% các sở, ban, ngành, địa phương trên địa bàn tỉnh đã thành lập Ban Chỉ đạo chuyển đổi số, ban hành Quy chế hoạt động của Ban Chỉ đạo. Các sở, ban, ngành, địa phương đã triển khai nhiều hình thức tuyên truyền, học tập, quán triệt nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, cộng đồng doanh nghiệp, người dân về tính cấp thiết và sự cần thiết của chuyển đổi số. Đến nay, quá trình triển khai thực hiện đạt được một số kết quả nhất định:
UBND tỉnh đã ban hành danh mục cơ sở dữ liệu dùng chung tỉnh Nghệ An. Hoàn thành việc xây dựng “Quy chế quản lý, kết nối và chia sẻ dữ liệu số của các cơ quan nhà nước tỉnh Nghệ An”. Năm 2023, tỉnh Nghệ An đã đưa vào vận hành Hệ thống thu thập, thẩm định và chia sẻ dữ liệu tỉnh Nghệ An (data.nait.vn). Các ngành, lĩnh vực đều tích cực triển khai hiệu quả các nền tảng, phần mềm dùng chung của các Bộ, ngành Trung ương liên thông đến cấp xã như: Công an, Y tế, Giáo dục và Đào tạo, Tài chính, Tư pháp, Lao động - Thương binh và Xã hội, Tài nguyên và Môi trường,… Hoàn thành kết nối kỹ thuật từ LGSP cấp tỉnh tới nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia (NGSP/NDXP) để khai thác 17 dịch vụ đã sẵn sàng cung cấp. Các nền tảng số, phần mềm dùng chung của tỉnh đều được triển khai trên các nền tảng điện toán đám mây bảo đảm vận hành hiệu quả, an toàn thông tin (được triển khai theo hình thức thuê dịch vụ CNTT); 100% cán bộ, công chức toàn tỉnh có máy tính sử dụng, kết nối mạng LAN, mạng Internet. 100% các cơ quan nhà nước, từ cấp tỉnh đến cấp xã được kết nối mạng truyền số liệu chuyên dùng với trên 870 điểm kết nối... Ước tính tỷ trọng KTS/GRDP tỉnh Nghệ An năm 2022: 7,38%. Đóng góp cho kinh tế số hiện nay tại Nghệ An chủ yếu vẫn là kinh tế số ICT (khoảng 50-58%), trong đó hoạt động sản xuất, buôn bán phần cứng, thiết bị điện tử, quang học chiếm tỷ lệ lớn nhất (hệ thống các cửa hàng, siêu thị điện tử…). Các hoạt động kinh tế số ngành lĩnh vực khác cũng có đóng góp cho kinh tế số (khoảng 20-24%) như: Khoa học công nghệ, y tế, giáo dục, du lịch, công thương, hoạt động khối Đảng và QLNN (ứng dụng các nền tảng số do DN phát triển), buôn bán lẻ… Công tác cấp Căn cước công dân tính đến ngày 16/8/2023, toàn tỉnh đã cấp được 2.814.752 trường hợp (cấp mới: 2.662.185 trường hợp; cấp đổi, cấp lại: 152.567 trường hợp). Triển khai thu nhận hồ sơ định danh điện tử: Tính đến ngày 16/8/2023, toàn tỉnh đã thu nhận được 2.311.256 hồ sơ; trong đó đã kích hoạt được 1.710.789/1.708.473 hồ sơ (đạt 100,13% chỉ tiêu Bộ Công an giao). Triển khai thực hiện Chiến lược An toàn, An ninh mạng quốc gia, chủ động ứng phó với các thách thức từ không gian mạng, kết quả đã phê duyệt hồ sơ đề xuất cấp độ và phương án đảm bảo an toàn thông tin theo cấp độ đề xuất cho 8/8 hệ thống cấp độ 3, 42/42 hệ thống cấp độ 2. Duy trì vận hành phần mềm Hệ thống phòng, chống mã độc tập trung của tỉnh đến hơn 3.400 máy tính của các sở, ban, ngành và UBND cấp huyện. Triển khai thuê dịch vụ Trung tâm giám sát an toàn thông tin và an ninh mạng (SOC) tỉnh Nghệ An. Triển khai quyết liệt, hiệu quả Chiến dịch bóc gỡ mã độc trên không gian mạng. Số liệu kết quả triển khai chiến dịch bóc gỡ mã độc trên địa bàn tỉnh Nghệ An năm 2023 với 4.637 cơ quan, doanh nghiệp nhận được thông tin về chiến dịch, 3.413 tổ chức triển khai chiến dịch.
Tuy nhiên, nhận thức về chuyển đổi số ở một số cơ quan, địa phương chưa thực sự rõ ràng; chưa định hình được các nội dung triển khai chuyển đổi số trong đơn vị, địa phương, lĩnh vực; người đứng đầu tại một số đơn vị chưa thực sự quan tâm đến chuyển đổi số. Một số văn bản pháp lý về chuyển đổi số chưa hoàn thiện, trong đó có khung pháp lý về báo cáo các chỉ tiêu thống kê về chuyển đổi số, việc đánh giá mức độ chuyển đối số rất khó khăn, nhất là kinh tế số và xã hội số. Việc thẩm định các nhiệm vụ, dự án CNTT/chuyển đổi số tại địa phương gặp nhiều khó khăn do chưa đầy đủ định mức kinh tế - kỹ thuật, an toàn thông tin. Phát triển hạ tầng số tại vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn, do thiếu điện lưới, địa hình phức tạp. Ở khu vực đô thị, một số bộ phận người dân e ngại về ảnh hưởng của sóng điện từ của trạm BTS nên cản trở, khiếu nại, khiếu kiện, ảnh hưởng đến duy trì và phát triển hạ tầng viễn thông, hạ tầng số. Cơ sở vật chất, hạ tầng phục vụ ứng dụng CNTT/chuyển đổi số tại một số sở, ngành, cấp huyện, cấp xã xuống cấp, thiếu đồng bộ, ảnh hưởng đến việc triển khai các nền tảng số phục vụ quản lý và điều hành. Hệ thống giải quyết thủ tục hành chính của tỉnh hiện đang hoạt động không ổn định, chưa đáp ứng đầy đủ chức năng, tính năng kỹ thuật theo quy định hiện hành. Việc khai thác các hệ thống thông tin dùng chung phục vụ quản lý và điều hành ở một số địa phương chưa triệt để. Cơ sở dữ liệu của các ngành còn rời rạc dẫn đến khó khăn trong kết nối, liên thông và chia sẻ. Cơ sở dữ liệu chưa đầy đủ, chất lượng chưa cao, cần cập nhật, làm sạch để thực hiện kết nối và chia sẻ; còn nhiều ngành chưa hình thành kho dữ liệu. Tình hình ngân sách địa phương còn gặp nhiều khó khăn, do đó kinh phí dành cho chuyển đổi số chưa tương xứng với các nhiệm vụ đặt ra. Đội ngũ nhân lực về CNTT/chuyển đổi số ở cấp huyện, cấp xã và trong các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ còn thiếu và yếu; do đó việc triển khai các nội dung về chuyển đổi số đang gặp nhiều khó khăn. Còn thiếu nhân lực chất lượng cao, có kỹ năng, nhất là cho ngành CNTT. Số doanh nghiệp CNTT phục vụ quá trình chuyển đổi số của tỉnh chưa nhiều, chưa có doanh nghiệp chuyên sâu về lĩnh vực an toàn thông tin, đa số đều cần sự hỗ trợ của các đơn vị cấp trên ở các tỉnh/thành lớn như Hà Nội, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh. Các đơn vị chưa thực hiện đầu tư đảm bảo an toàn thông tin khi đưa các hệ thống vào vận hành chính thức. Chậm đề ra lộ trình, giải pháp cụ thể về đảm bảo an toàn thông tin. Vấn đề an toàn thông tin trên không gian mạng vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro. Tỷ trọng KTS/GRDP tỉnh Nghệ An còn thấp, chỉ chiếm 7,38%. Các doanh nghiệp số tại Nghệ An đang rất hạn chế, chủ yếu tập trung ở khu vực thành thị. Việc ứng dụng các nền tảng số vào quản lý, sản xuất kinh doanh cũng đang hạn chế, nhất là khu vực nông thôn, tập trung chỉ ở hoạt động quảng bá sản phẩm trên Website, mạng xã hội, một số thanh toán không dùng tiền mặt.
Nguyên nhân chủ yếu của hạn chế, khó khăn trên là do nhận thức, quyết tâm chính trị về chuyển đổi số của các cấp ủy đảng, chính quyền và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, doanh nghiệp và người dân chưa theo kịp với yêu cầu thực tiễn. Nhiều cơ quan, đơn vị chưa mạnh dạn thay đổi phương pháp, cách làm việc truyền thống và lựa chọn hướng đi phù hợp. Mặt khác một số đơn vị triển khai đồng thời nhiều giải pháp, phần mềm ứng dụng nhưng chưa sát tình hình thực tế, dẫn đến lãng phí trong đầu tư, hiệu quả không cao; Nguồn lực đầu tư cho chuyển đổi số chưa đáp ứng được nhu cầu; một số chương trình, dự án trọng điểm về hiện đại hóa hành chính, chuyển đổi số còn chậm triển khai; Phát triển kinh tế số, xã hội số là nhiệm vụ quan trọng của chuyển đổi số, tuy nhiên việc triển khai trên địa bàn tỉnh còn rất lúng túng, khó khăn do cơ chế, chính sách, hướng dẫn chưa cụ thể, nền tảng để tổ chức thực hiện và hệ thống đo lường, đánh giá khu vực kinh tế số, xã hội số chưa thực sự rõ ràng.
Trong thời gian tới, Nghệ An cần quyết tâm thực hiện hiệu quả các giải pháp sau:
Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về chuyển đổi số. Cần phát huy vai trò của người đứng đầu trong triển khai nhiệm vụ chuyển đổi số gắn với mục tiêu nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý, điều hành và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, đơn vị. Đưa kết quả triển khai chuyển đổi số thành chỉ tiêu đánh giá của các ngành, các cấp, cơ quan, đơn vị và cán bộ, công chức. Triển khai nhiều hình thức tuyên truyền, học tập, quán triệt nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, cộng đồng doanh nghiệp và người dân về tính cấp thiết và sự cần thiết của chuyển đổi số. Phát huy mạnh mẽ vai trò của Mặt trận Tổ quốc, tổ chức chính trị - xã hội các cấp trong công tác tuyên truyền, vận động và giám sát chương trình chuyển đổi số tại địa phương.
Thứ hai, phát triển hạ tầng số trên cơ sở kết hợp mạng truyền số liệu chuyên dùng, mạng internet, trung tâm dữ liệu của cơ quan Nhà nước để kết nối liên thông, xuyên suốt từ cấp tỉnh đến cấp xã. Tái cấu trúc hạ tầng công nghệ thông tin của các ban, sở, ngành, địa phương; chuyển đổi hạ tầng công nghệ thông tin thành hạ tầng số ứng dụng công nghệ điện toán đám mây, quản lý tập trung các hệ thống cơ sở dữ liệu dùng chung của tỉnh. Thực hiện kịp thời việc cập nhật, liên thông các cơ sở dữ liệu quốc gia theo lộ trình triển khai của các bộ, ngành và Chính phủ; ứng dụng hiệu quả các cơ sở dữ liệu quốc gia phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Phát triển, hoàn thiện hệ thống thông tin báo cáo của tỉnh kết nối với hệ thống thông tin báo cáo Chính phủ để thu thập, tích hợp, chia sẻ, tổng hợp, phân tích dữ liệu báo cáo của các cơ quan hành chính nhà nước phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành của tỉnh. Chuẩn hóa, điện tử hóa quy trình xử lý hồ sơ, biểu mẫu, chế độ báo cáo trên môi trường điện tử; thực hiện số hóa hồ sơ và kết quả giải quyết thủ tục hành chính. Đồng hành và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp viễn thông, công nghệ thông tin phát triển hạ tầng viễn thông băng rộng, nâng cao chất lượng dịch vụ đáp ứng nhu cầu chuyển đổi số. Sẵn sàng triển khai thí điểm những ứng dụng dịch vụ, nền tảng, giải pháp công nghệ mới, tiên phong thử nghiệm các công nghệ và mô hình mới phục vụ chuyển đổi số. Bố trí nguồn lực tương xứng, bảo đảm thực hiện tốt các nhiệm vụ chuyển đổi số.
Thứ ba, tập trung đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng lãnh đạo, quản lý chuyển đổi số cho cán bộ chủ chốt, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị, địa phương; cán bộ lãnh đạo, quản lý phải chủ động, tiên phong sử dụng các sản phẩm, dịch vụ số và dẫn dắt quá trình chuyển đổi số. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công nghệ thông tin hiện có, tổ chức đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu để đội ngũ này trở thành lực lượng nòng cốt tham mưu cho cấp ủy, chính quyền các cấp về chuyển đổi số. Chú trọng việc đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng sử dụng công nghệ số cho cán bộ, công chức, viên chức, người lao động các cơ quan, đơn vị phù hợp với vị trí việc làm, nhằm tăng cường lực lượng nòng cốt, lan tỏa kiến thức, kỹ năng phục vụ chuyển đổi số. Nâng cao năng lực, chất lượng đào tạo công nghệ thông tin trong các cấp giáo dục phổ thông và cơ sở đào tạo nghề nghiệp trên địa bàn tỉnh. Có cơ chế, chính sách thu hút các chuyên gia công nghệ số, nhân lực công nghệ thông tin chất lượng cao làm việc trong các cơ quan của hệ thống chính trị.
Thứ tư, đẩy mạnh chuyển đổi số trong hoạt động của cơ quan Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, tổ chức chính trị - xã hội các cấp. Tích cực, chủ động tổ chức thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ theo Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030; Chiến lược phát triển chính phủ điện tử, hướng tới chính phủ số giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030. Hoàn thiện, nâng cao hiệu quả hoạt động của Trung tâm điều hành thông minh phục vụ công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành thường xuyên; hỗ trợ công tác giám sát hiện trường, chỉ đạo điều hành và tác nghiệp trong các trường hợp khẩn cấp về thiên tai, sự cố, dịch bệnh, an ninh trật tự. Tiếp tục rà soát, xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách thúc đẩy chuyển đổi số; chú trọng việc tái cấu trúc hoặc đổi mới mô hình, quy trình hoạt động kết hợp với áp dụng công nghệ số, dữ liệu số trong chỉ đạo, điều hành, phát triển kinh tế - xã hội. Khuyến khích thuê dịch vụ công nghệ thông tin trong việc ứng dụng công nghệ số, chuyển đổi số; ưu tiên triển khai ứng dụng các nền tảng công nghệ số đồng bộ trên phạm vi toàn ngành, toàn tỉnh, liên thông với nền tảng tích hợp và chia sẻ dữ liệu của tỉnh.
Thứ năm, phối hợp với doanh nghiệp bưu chính công ích cung cấp dịch vụ công (thông qua mạng bưu chính công cộng, mạng xã hội, ứng dụng của doanh nghiệp); tạo điều kiện, hỗ trợ doanh nghiệp giới thiệu, cung cấp sản phẩm, dịch vụ số,... Thực hiện gắn kết chặt chẽ giữa cải cách thủ tục hành chính với phát triển chính quyền số; rà soát các thủ tục hành chính, quy trình nghiệp vụ trong các cơ quan nhà nước theo hướng đơn giản hóa hoặc thay đổi phù hợp để có thể ứng dụng hiệu quả công nghệ số. Chuẩn hóa kiến thức cho cán bộ chuyên trách công nghệ thông tin các cơ quan nhà nước theo khung chương trình bồi dưỡng về ứng dụng công nghệ thông tin và an toàn thông tin cho cán bộ chuyên trách, kiêm nhiệm về công nghệ thông tin do Bộ Thông tin và Truyền thông hướng dẫn. Tăng cường phối hợp với các tập đoàn công nghệ thông tin lớn đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng nâng cao, chuyên sâu về công nghệ thông tin cho cán bộ, công chức, viên chức của tỉnh.
Thứ sáu, xây dựng nền tảng dữ liệu số quản lý ngành nông nghiệp, ứng dụng các mô hình sản xuất nông nghiệp thông minh, phát triển mạng lưới logistics gắn với thương mại điện tử và chuỗi sản xuất các sản phẩm chủ lực của tỉnh. Ứng dụng công nghệ số trong quy hoạch và quản lý phát triển đô thị; thực hiện quy hoạch, phát triển hạ tầng đô thị theo định hướng phát triển đô thị thông minh; ưu tiên triển khai các dịch vụ thông minh về giáo dục, y tế, giám sát an ninh trật tự, giao thông, môi trường, năng lượng, chiếu sáng đô thị, cấp nước sinh hoạt, thoát nước. Có cơ chế, chính sách khuyến khích, hướng dẫn, hỗ trợ người dân, doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi số, khai thác các dịch vụ số, tiện ích số để giải quyết thủ tục hành chính, tham gia thương mại điện tử, tiếp cận với các mô hình, kỹ thuật sản xuất trên môi trường số. Thu hẹp khoảng cách số giữa đô thị với nông thôn, quan tâm phát triển kỹ năng số và điều kiện tiếp cận dịch vụ số cho người dân vùng nông thôn (vùng biển, miền núi và các địa bàn khó khăn); hỗ trợ người dân vùng khó khăn và dân tộc thiểu số tiếp cận công nghệ số; phát triển các sản phẩm văn hóa của Nghệ An trên nền tảng công nghệ số, phục vụ rộng rãi người dân trong và ngoài tỉnh. Huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực xã hội hóa đầu tư phát triển công nghệ số và kinh tế số trên địa bàn tỉnh.
Thứ bảy, hoàn chỉnh các quy định, quy chế bảo đảm an toàn thông tin mạng theo mô hình “4 lớp” thống nhất trên phạm vi toàn tỉnh. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống hạ tầng thông tin theo nguyên tắc bảo đảm an toàn thông tin, an ninh mạng để cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, người dân được bảo vệ an toàn thông tin và dữ liệu riêng tư, tham gia bình đẳng vào quá trình chuyển đổi số. Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền, hướng dẫn người dân nâng cao nhận thức tự bảo vệ trên môi trường số.
Thứ tám, tập trung triển khai thực hiện chuyển đổi số trong các lĩnh vực: quản lý hành chính, nông nghiệp, công thương, văn hóa và du lịch, giao thông vận tải và logistics, an ninh trật tự, an toàn giao thông. Người đứng đầu các ban, sở, ngành, cơ quan, địa phương trực tiếp chỉ đạo xây dựng kế hoạch, lựa chọn lĩnh vực ưu tiên, bố trí nguồn lực để triển khai thực hiện chuyển đổi số ở đơn vị, địa phương mình.
Chuyển đổi số là bước tiến phát triển vượt bậc của toàn nhân loại. Với quyết tâm của hệ thống chính trị, dân số đông, trẻ, năng động và có khả năng tiếp cận công nghệ cao nhanh chóng, Nghệ An có tiềm năng rất lớn trong việc chuyển đổi số. Đây là những cơ hội mạnh mẽ để các cơ quan, doanh nghiệp, người dân tạo ra sự đột phá trên các lĩnh vực nhờ vào chuyển đổi số./.
Phan Thanh Đoài, Phó Trưởng ban Dân vận Tỉnh ủy
Nguyễn Thị Hồng Giang, Giảng viên chính Trường Chính trị tỉnh