Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) là một thước đo quan trọng để đánh giá mức độ thuận lợi, thân thiện của môi trường đầu tư kinh doanh, chất lượng điều hành kinh tế và nỗ lực cải cách hành chính (CCHC) của chính quyền cấp tỉnh dựa trên 10 lĩnh vực quan trọng đối với sự phát triển của các doanh nghiệp (DN) thuộc khu vực kinh tế tư nhân.
Đặc biệt, qua khảo sát môi trường đầu tư, kinh doanh (KD) năm 2023 dựa trên đánh giá 10 chỉ số thành phần với 142 chỉ tiêu và nhận được sự phản hồi từ 8.402 doanh nghiệp tư nhân (DNTN) trong nước (đạt tỷ lệ phản hồi 16,53%), 1.549 DN có vốn FDI (đạt tỷ lệ phản hồi 26,7%) và 725 DN trong nước đăng ký mới (đạt tỷ lệ phản hồi 12,5%). Phương pháp đánh giá chỉ số PCI năm 2023 về cơ bản hướng tới đánh giá kết quả trực tiếp do hoạt động điều hành của lãnh đạo/chính quyền tỉnh như ban hành chính sách, thủ tục. Báo cáo PCI năm 2023 chỉ ra tám xu hướng đáng chú ý về chất lượng điều hành cấp tỉnh của các tỉnh, trong đó chỉ ra năm tích cực gồm: Chất lượng điều hành kinh tế cấp tỉnh đã có sự cải thiện theo thời gian; công tác hỗ trợ DN có chuyển biến tích cực; chi phí không chính thức tiếp tục chiều hướng giảm; thủ tục gia nhập thị trường thuận lợi hơn; cải cách TTHC đạt nhiều kết quả tích cực. Bên cạnh đó nêu ba tồn tại: Trở ngại trong tiếp cận đất đai tiếp tục gia tăng, đòi hỏi những nỗ lực cải cách quyết liệt hơn trong thời gian tới; các DN nhỏ và vừa (DNNVV) mong muốn môi trường KD bình đẳng hơn; cần xốc lại tinh thần năng động tiên phong của chính quyền cấp tỉnh…
Để hiểu rõ Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI, chung ta đi sâu phân tích chỉ số thành phần và thực trạng tỉnh Nghệ An
Theo kết quả của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam công bố, chỉ số PCI tỉnh Nghệ An năm 2023 đạt 65,72 điểm, xếp thứ 44 cả nước, xếp thứ 3 khu vực Bắc Trung Bộ. So với năm 2022, chỉ số PCI giảm 0,88 điểm, giảm 21 bậc. Trong số 10 chỉ số thành phần, nhiều chỉ số tụt nhiều hạng và xếp thứ bậc thấp so với cả nước như: Chi phí không chính thức (xếp thứ 63), Thiết chế pháp lý và ANTT (xếp thứ 56), Tiếp cận đất đai (xếp thứ 55), Chi phí thời gian (xếp thứ 52), Cạnh tranh bình đẳng (xếp thứ 44). Cụ thể:
Chỉ số thành phần 1: Gia nhập thị trường (đạt 7,33 điểm, xếp hạng 31/63, tăng 15 bậc): Mặc dù tỷ lệ DN đăng ký hoặc sửa đổi đăng ký trực tuyến khá cao, nhưng vẫn còn nhiều DN gặp khó khăn trong việc hoàn tất thủ tục. Các DN ghi nhận có những chuyển biến tích cực hơn trong việc giải quyết thủ tục hành chính (TTHC), tỉnh Nghệ An có 6/14 chỉ tiêu thứ hạng thuộc top 10. Tuy nhiên vẫn tồn tại một số mặt triển khai chưa tốt, cụ thể: Hướng dẫn và hỗ trợ DN tại bộ phận Một cửa, đặc biệt là lĩnh vực cấp phép KD có điều kiện.
Chỉ số thành phần 2: Tiếp cận đất đai và ổn định trong sử dụng đất (đạt 6,25 điểm, xếp hạng 55/63, giảm 10 bậc): Đây là năm thứ 2 liên tiếp chỉ số này tụt giảm mạnh (năm 2021 xếp thứ 40, năm 2022 giảm 5 bậc xuống thứ 45 và năm 2023 giảm 10 bậc xuống thứ 55) cho thấy những tồn tại trong lĩnh vực này chưa được cải thiện đáng kể. Việc tiếp cận đất đai tại Nghệ An gặp nhiều trở ngại, đặc biệt việc thực hiện TTHC liên quan đến đất đai. Điều này làm giảm sự hấp dẫn của tỉnh đối với các nhà đầu tư mới.
Chỉ số thành phần 3: Tính minh bạch (đạt 6,74 điểm, xếp hạng 8/63, tăng 19 bậc): Lĩnh vực này tỉnh Nghệ An tiếp tục được cải thiện nhờ có sự thay đổi tích cực theo định hướng phát triển chính phủ số, nền kinh tế số. Chất lượng website được nâng cao và chủ động cung cấp các thông tin hữu ích cho DN (TTHC, văn bản pháp luật, các ưu đãi, khuyến khích, hỗ trợ đầu tư). Tuy nhiên, mức độ minh bạch thông tin còn hạn chế, chưa kịp thời, đầy đủ và còn khó tiếp cận nhất là các thông tin quy hoạch, tài liệu quan trọng. Điều này có thể gây khó khăn cho DN trong việc tiếp cận các thông tin cần thiết để hoạt động hiệu quả.
Chỉ số thành phần 4: Chi phí thời gian (đạt 7,37 điểm, xếp hạng 52/63, giảm 10 bậc): Trong chỉ số này việc triển khai giải quyết TTHC trực tuyến là điểm sáng của tỉnh, Tuy nhiên, thời gian để tìm hiểu nhiều chỉ tiêu quan trọng (gắn trực tiếp với TTHC đơn giản, tinh thần, thái độ phục vụ hay tình trạng nhũng nhiễu của một số cán bộ) đang được đánh giá thấp, cho thấy thời gian DN phải dành cho thực hiện các TTHC, các cuộc thanh tra và kiểm tra khá dài. Điều này có thể làm gián đoạn hoạt động KD và gây phiền hà cho DN.
Chỉ số thành phần 5: Chi phí không chính thức (đạt 6,43 điểm, xếp hạng 63/63, giảm 30 bậc): Đây là chỉ số tỉnh Nghệ An bị đánh giá thấp nhất, đứng cuối bảng xếp hạng, đáng nói hơn là chi phí không chính thức của cả nước có xu hướng giảm nhưng Nghệ An vẫn ở mức cao, cho thấy chi phí không chính thức vẫn là một vấn đề nghiêm trọng. DN vẫn phải chịu các khoản chi phí ngoài quy định để có thể hoạt động trơn tru hơn. Việc này không chỉ gây tốn kém mà còn ảnh hưởng xấu đến môi trường KD của tỉnh.
Chỉ số thành phần 6: Cạnh tranh bình đẳng (đạt 5,37 điểm, xếp hạng 44/63, giảm 33 bậc): Điểm số cho thấy sự thiếu bình đẳng trong cạnh tranh giữa các DN lớn và nhỏ. Chính quyền đang tập trung thu hút các nhà đầu tư chiến lược, các DN lớn, DN FDI để tạo động lực bứt phá cho sự phát triển chung. Mặt trái của chiến lược này là sự mất cân đối do nguồn lực hạn hẹp nên khó có thể dàn trải, trong khi DN nhỏ và vừa (DNNVV) đang gặp nhiều khó khăn hơn do ảnh hưởng tình hình kinh tế, chính trị thế giới.
Chỉ số thành phần 7: Tính năng động và tiên phong của chính quyền (đạt 6,70 điểm, xếp hạng 35/63, giảm 10 bậc): Chỉ số này nhằm đánh giá rõ hơn về năng lực của chính quyền tỉnh trong điều hành, quản lý một cách sáng tạo, hiệu quả và nhất quán từ chủ trương tới hành động. Mặc dù đã có những nỗ lực trong việc giải quyết vấn đề cho DN nhưng điểm số tại chỉ số này cho thấy kết quả hành động của chính quyền chưa đáp ứng kỳ vọng của cộng đồng DN.
Chỉ số thành phần 8: Chính sách hỗ trợ DN (đạt 7,56 điểm, xếp hạng 3/63, giữ nguyên thứ hạng): Đây là chỉ số có sự cải thiện mạnh về điểm số và có thứ hạng tốt nhất của tỉnh, tiếp tục giữ vững vị trí thứ 3/63, cho thấy các chính sách hỗ trợ DN đã có nhiều tiến bộ, thực chất và hiệu quả hơn; góp phần đưa chính sách tới gần hơn, nhanh hơn, hiệu quả hơn với DN, tạo trợ lực mới để thực sự đáp ứng nhu cầu của DN.
Chỉ số thành phần 9: Đào tạo lao động (đạt 5,65 điểm, xếp hạng 36/63, tăng 12 bậc): Tỉnh có lợi thế về lực lượng lao động đã qua đào tạo phổ thông, giá rẻ nhưng không còn là điểm mạnh trong thu hút đầu tư, bởi nhu cầu của DN về lao động không được đáp ứng hiệu quả. Chất lượng đào tạo lao động, cơ cấu giáo dục nghề nghiệp vẫn chưa đáp ứng nhu cầu thực tế, còn hiện tượng dịch chuyển lao động là vấn đề đáng quan ngại.
Chỉ số thành phần 10: Thiết chế pháp lý và an ninh trật tự (đạt 6,71 điểm, xếp hạng 56, giảm 23 bậc): Với Nghệ An, lĩnh vực này giảm mạnh 23 bậc so với năm 2022 xuống thứ hạng 56/63, cho thấy các thủ tục giải quyết tranh chấp còn nhiều hạn chế.
Qua phân tích, đánh giá các chỉ số thành phần PCI năm 2023, chúng ta có thể thấy có những bất cập, hạn chế chính sau:
Thứ nhất, đa số DNNVV cho rằng tỉnh ưu tiên cho các DN lớn tạo nên sự bất bình đẳng giữa các DN.
Năm 2023 chỉ số cạnh tranh bình đẳng là chỉ số tụt hạng nhiều nhất (giảm 33 bậc xuống thứ hạng 44 cả nước). Nhiều chỉ tiêu xếp thứ hạng thấp: Tỷ lệ DN đồng ý với nhận định “Sự quan tâm của chính quyền tỉnh không phụ thuộc vào đóng góp của DN cho địa phương như số lao động sử dụng, số thuế phải nộp hoặc tài trợ/hỗ trợ khác” xếp thứ 61; Tỷ lệ DN đồng ý với nhận định “Tỉnh ưu tiên thu hút đầu tư từ các DN lớn hơn là phát triển DNNVV tại địa phương” xếp thứ 55.
Một số dự án lớn do các DN lớn, DN FDI triển khai trên địa bàn tỉnh và nhận được sự quan tâm chỉ đạo tích cực của tỉnh cũng đã tác động đến tâm lý của các DN nhỏ. Chiến lược thu hút đầu tư của tỉnh là tập trung thu hút các nhà đầu tư chiến lược, các DN lớn, DN FDI để tạo động lực bứt phá cho sự phát triển chung. Đặc biệt, năm 2023 cấp mới cho 19 dự án FDI với tổng số vốn đầu tư đăng ký là 1.327,6 triệu USD, điều chỉnh tổng vốn đầu tư cho 13 dự án FDI với tổng vốn đầu tư tăng thêm 277,9 triệu USD, tổng vốn đầu tư cấp mới và tăng thêm là 1.605,5 triệu USD, đưa Nghệ An nằm trong Top 10 cả nước. Tuy nhiên mặt trái của chiến lược này là mất đi sự cân đối do nguồn lực hạn hẹp nên khó có thể quan tâm cho mọi đối tượng mà buộc phải có các chiến lược ưu tiên. Bên cạnh đó do ảnh hưởng của tình hình kinh tế, chính trị thế giới làm cho DNNVV càng gặp nhiều khó khăn hơn để phục hồi, mở rộng hoạt động KD trong khi khối DNNVV chiếm tỉ trọng lớn trên tổng số lấy ý kiến đánh giá chỉ số PCI của cả nước nên có ảnh hưởng lớn đến điểm số, xếp hạng chỉ số PCI của tỉnh. Công tác tuyên truyền chưa đạt kết quả tốt do đó DN nhỏ chưa nắm được hết các nội dung hỗ trợ của cơ quan nhà nước.
Thứ hai, trở ngại trong tiếp cận đất đai tiếp tục gia tăng.
Đây là năm thứ ba liên tiếp chỉ số này giảm thứ hạng, năm 2023 giảm 10 bậc xếp thứ 55 cả nước cho thấy những tồn tại trong lĩnh vực này chưa được giải quyết, nỗ lực cải cách chưa đạt hiệu quả nhất định, trong đó: Thông tin, dữ liệu về đất đai không được cung cấp thuận lợi, nhanh chóng, tỷ lệ DN cho biết “thời hạn giải quyết hồ sơ đất đai dài hơn so với thời hạn được niêm yết hoặc văn bản quy định” (61%), tỷ lệ DN phản ánh “cán bộ nhận hồ sơ và giải quyết TTHC đất đai không hướng dẫn chi tiết, đầy đủ” (43%), tỷ lệ DN “chi trả chi phí không chính thức để đẩy nhanh việc thực hiện thủ tục đất đai” (41%).
Một số huyện không có Trung tâm phát triển quỹ đất mà chỉ thành lập các Hội đồng bồi thường giải phóng mặt bằng (GPMB) do cán bộ, công chức cơ quan UBND huyện hoạt động kiêm nhiệm, vừa phải đảm nhiệm công việc chuyên môn, vừa phải thực hiện công tác GPMB, ảnh hưởng đến tiến độ bồi thường GPMB. Quỹ đất sạch còn hạn chế, thiếu kinh phí GPMB, cơ chế để tạo quỹ đất sạch chưa rõ, các thủ tục tạo lập quỹ đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vẫn còn rất phức tạp, mất nhiều thời gian, chi phí và nhân lực. Công tác lập, điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, xác định giá đất chưa thật sự kịp thời; việc rà soát, cập nhật, công khai bộ TTHC về lĩnh vực đất đai vẫn còn chậm so với tiến độ đề ra; tỷ lệ phát triển dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 và 4 chưa cao; cơ sở dữ liệu về đất đai chưa được hoàn thiện nên còn khó khăn trong việc liên thông giải quyết TTHC trong lĩnh vực đất đai. Thủ tục đầu tư, hạ tầng khu kinh tế, các khu công nghiệp, cụm công nghiệp chưa đáp ứng được nhu cầu của nhà đầu tư. Công tác quản lý nhà nước về đất đai của chính quyền địa phương (UBND cấp huyện, xã) còn hạn chế và chưa đồng đều.
Thứ ba, tính năng động tiên phong của chính quyền tỉnh trong bảo đảm sự ổn định, nhất quán của môi trường KD cũng như việc thực hiện các cam kết cải thiện môi trường KD chưa đáp ứng kỳ vọng của DN.
Chỉ số tính năng động của chính quyền tụt 10 hạng so với năm 2022 xuống thứ 35. Tỷ lệ DN đồng ý với nhận định "UBND tỉnh linh hoạt trong khuôn khổ pháp luật nhằm tạo môi trường KD thuận lợi" khá cao (86%), tuy nhiên tỷ lệ DN tin tưởng rằng “lãnh đạo địa phương đã hành động để thực hiện các cam kết cải thiện môi trường KD của mình” còn thấp (62%), xếp thứ 60 cả nước. Các chỉ số thành phần cho thấy các cấp chính quyền của tỉnh đang quá thận trọng trong thi hành pháp luật nên chưa làm hài lòng cộng đồng DN.
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện cải thiện môi trường đầu tư KD tại một số cơ quan, đơn vị còn chưa quyết liệt, hiệu quả; người đứng đầu còn tư tưởng ngại va chạm, sợ sai, điều hành chưa cụ thể, thiếu tinh bao quát, chưa huy động sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị. Các chủ trương, chính sách của tỉnh khi đi vào thực tế thực hiện còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Chất lượng tham mưu của các ngành chuyên môn cho UBND tỉnh thực hiện các chính sách, giải quyết vướng mắc, khó khăn của DN chưa cao, còn chậm.
Thứ tư, Thiết chế pháp lý và an ninh trật tự chưa thực sự ổn định và hiệu quả.
Chỉ số này giảm mạnh 23 bậc so với năm 2022 xuống thứ hạng 56 cả nước. Có 13/18 chỉ tiêu có điểm số dưới giá trị trung vị, 11/18 chỉ tiêu có thứ hạng rất thấp (chủ yếu từ hạng 55 - 63/63), đáng chú ý là các chỉ tiêu: “Tòa án các cấp của tỉnh xét xử các vụ kiện kinh tế đúng pháp luật” xếp thứ 62, “các cơ quan trợ giúp pháp lý hỗ trợ DN dùng luật để khởi kiện khi có tranh chấp” xếp thứ 62, “các chi phí chính thức từ khi khởi kiện đến khi bản án được thi hành ở mức chấp nhận được” xếp thứ 62, “các chi phí không chính thức từ khi khởi kiện đến khi bản án được thi hành ở mức chấp nhận được” xếp thứ 62, “phán quyết của toà án là công bằng” xếp thứ 63.
Tình hình tội phạm diễn biến phức tạp, tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính xảy ra nhiều; trong đó có nhiều vụ việc phức tạp, một số dự án phải chuyển sang cơ quan cảnh sát điều tra. Chất lượng thực hiện quyền công tố và kiểm sát việc giải quyết còn chưa cao do một số nội dung quy định của pháp luật chưa được hướng dẫn cụ thể.
Thứ năm, Chi phí không chính thức không có chiều hướng thuyên giảm.
Đây là chỉ số tụt mạnh xuống đứng cuối bảng xếp hạng (đứng thứ 63/63), tỷ lệ DN phản ánh “hiện tượng nhũng nhiễu khi giải quyết thủ tục cho DN là phổ biến” (63%), tỷ lệ DN “có chi trả chi phí không chính thức” (40%) và tỷ lệ DN “trả chi phí không chính thức cho cán bộ thanh, kiểm tra, đẩy nhanh thủ tục đất đai” có xu hướng tăng lên, chiếm tỉ lệ cao, đứng gần cuối bảng xếp hạng.
Việc ứng dụng dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 và 4 giải quyết TTHC cho DN và người dân còn hạn chế, do đó khi giải quyết TTHC, cán bộ còn tiếp xúc trực tiếp nhiều với DN, người dân, phát sinh chi phí không chính thức. Nguồn kinh phí đầu tư hạ tầng trang thiết bị công nghệ thông tin phục vụ chuyển đổi số trong các cơ quan, đơn vị còn thiếu. Một bộ phận cán bộ, công chức chưa quan tâm đúng mức đến vai trò, ý nghĩa và tác động của chỉ số PCI; làm việc cầm chừng, tâm lý sợ sai, ngại khó, thiếu trách nhiệm trong công việc; còn nhũng nhiễu, gây khó khăn cho DN, nhà đầu tư.
Một số giải pháp nhằm nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI), bảo đảm công bằng cho DN
Theo Đề án cải thiện môi trường đầu tư KD, nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư tỉnh Nghệ An giai đoạn 2021 - 2025, mục tiêu đến năm 2025 Nghệ An nằm trong top 15 cả nước; phấn đấu năm 2024 Nghệ An xếp vị trí 20 - 25 cả nước về cải thiện môi trường đầu tư KD, nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI). Để thực hiện được các mục tiêu đó, trong thời gian tới tỉnh cần tập trung thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp như sau:
Thứ nhất: Về chỉ số Cạnh tranh bình đẳng
Một là, tiếp tục tuyên truyền, phổ biến, thực hiện các chính sách hỗ trợ DNNVV theo Luật Hỗ trợ DNNVV; các nghị định của Chính phủ có liên quan và Quyết định số 562/QĐ-UBND, ngày 14/3/2024 của UBND tỉnh Nghệ An về việc phân khai kinh phí thực hiện Đề án Phát triển DN, giao nhiệm vụ hỗ trợ DNNVV tỉnh Nghệ An năm 2024; Quyết định số 836/QĐ-UBND, ngày 31/3/2021 của UBND tỉnh về thực hiện Chương trình hỗ trợ pháp lý cho DNNVV trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2021 - 2025... bằng nhiều hình thức, nhiều kênh để các DN trên địa bàn tỉnh có thể dễ dàng tiếp cận; phát huy vai trò của Hiệp hội, các hội DN, doanh nhân, VCCI chi nhánh Nghệ An - Hà Tĩnh - Quảng Bình trong việc tuyên truyền, phổ biến đến các DN.
Hai là, hằng năm tổ chức các hội nghị, hội thảo, khoá tập huấn theo chuyên đề cho các đối tượng là DNNVV nhằm nâng cao năng lực quản trị, quản lý điều hành, thông tin các cơ chế chính sách, pháp luật liên quan đến hoạt động đầu tư, KD trên địa bàn tỉnh. Tiếp tục duy trì và nâng cao chất lượng các hội nghị gặp gỡ, đối thoại với các hội, hiệp hội DN nhằm nắm bắt các khó khăn, vướng mắc và kịp thời tham mưu, giải quyết cho DN. Thực hiện đấu thầu công khai các hợp đồng từ cơ quan nhà nước, tạo điều kiện cho các DN đều được tiếp cận, tham gia.
Ba là, các cơ quan báo chí của tỉnh, hiệp hội, hội DN tỉnh tăng cường tuyên truyền về mục đích và ý nghĩa của việc cải thiện môi trường đầu tư KD, nâng cao Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI); phổ biến, giới thiệu đến các DN trong tỉnh truy cập vào Cổng thông tin điện tử của tỉnh và Cổng thông tin điện tử của các cơ quan Nhà nước để khai thác, tra cứu các thông tin, văn bản, chế độ chính sách liên quan đến hoạt động của DN và sử dụng dịch vụ công trực tuyến; tăng cường sử dụng dịch vụ công trực tuyến trong việc nộp hồ sơ giải quyết TTHC.
Thứ hai: Về chỉ số tiếp cận đất đai
Một là, ứng dụng, khai thác có hiệu quả Dự án xây dựng cơ sở dữ liệu về đất đai tỉnh Nghệ An; công khai, minh bạch các TTHC về đất đai, các chính sách về bồi thường, GPMB, giá đất, quỹ đất, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, danh mục dự án có sử dụng đất để tổ chức đấu thầu, đấu giá trên Cổng thông tin điện tử của UBND tỉnh, trang web của Sở Tài nguyên và Môi trường cho DN, nhà đầu tư dễ dàng tiếp cận.
Hai là, tiếp tục rà soát, đánh giá các TTHC về đất đai, kiến nghị tiếp tục sửa đổi, bổ sung đơn giản hóa, trọng tâm là rút ngắn quy trình, thời gian xử lý, giảm số lượng hồ sơ, đơn giản hóa nội dung hồ sơ. Kịp thời, sửa đổi, bổ sung các quy định của tỉnh liên quan đến đất đai đảm bảo phù hợp với Luật Đất đai năm 2024 và các nghị định hướng dẫn thi hành.
Ba là, xây dựng cơ chế tạo quỹ đất dự trữ, tạo quỹ đất sạch do Nhà nước quản lý, nhất là đối với các khu đất nằm trong quy hoạch cụm công nghiệp, các khu đất quy hoạch dự án thuộc danh mục dự án kêu gọi đầu tư của tỉnh, các khu đất có giá trị thương mại cao nhằm gia tăng giá trị đất và tạo điều kiện cho các nhà đầu tư dễ dàng tiếp cận đất đai và đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án theo hướng công khai, minh bạch thông qua các hình thức đấu giá, đầu thầu.
Bốn là, ưu tiên bố trí nguồn lực cho công tác GPMB tại những khu vực đã có quy hoạch; thực hiện tốt công tác thu hồi đất, bồi thường và GPMB, bảo đảm công khai, minh bạch, đúng quy định pháp luật. Trong đó, tập trung GPMB các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, chuẩn bị sẵn sàng mặt bằng thu hút các nhà đầu tư thứ cấp.
Năm là, ưu tiên bố trí kinh phí để thực hiện công tác đo đạc lập bản đồ địa chính đất nông nghiệp sau “dồn điền đổi thửa” và đất lâm nghiệp, đăng ký đất đai, cấp giấy chứng nhận và xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai trên địa bàn tỉnh tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư có thể nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất để thực hiện dự án. Chính quyền địa phương (UBND cấp huyện, xã) nâng cao trách nhiệm trong việc xác minh nguồn gốc đất, cấp/cấp đổi GCNQSD đất để tạo thuận lợi cho nhà đầu tư nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Sáu là, thống kê, rà soát xử lý đất và tài sản trên đất của các DN đã cổ phần hóa thuộc đối tượng thực hiện sắp xếp, xử lý nhà đất theo quy định tại Nghị định số 167/2021/NĐ-CP, ngày 31/12/2017 và Nghị định số 67/2021/NĐ-CP, ngày 15/7/2021 của Chính phủ. Kiểm kê, quản lý tốt quỹ đất công, tài sản công, thực hiện nghiêm túc quy định về đấu giá tài sản công.
Bảy là, tăng cường đối thoại theo chuyên đề về lĩnh vực đất đai để hướng dẫn cho DN cách thức tiếp cận quỹ đất được thuận lợi. Rà soát, kiểm tra, thu hồi các dự án vi phạm quy định của Luật đất đai nhằm loại trừ những trường hợp đầu cơ đất đai hoặc thiếu năng lực.
Tám là, nâng cao chất lượng, đạo đức công vụ cán bộ, công chức thực hiện nhiệm vụ trong lĩnh vực đất đai. Ưu tiên bố trí cán bộ có năng lực, kinh nghiệm, ứng xử tốt tại bộ phận tiếp nhận và hướng dẫn hồ sơ.
Thứ ba: Về chỉ số tính năng động và tiên phong của chính quyền
Một là, đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu. Đổi mới phương thức lãnh đạo, chỉ đạo theo hướng quyết liệt, linh hoạt, hiệu quả; tổ chức triển khai các nhiệm vụ toàn diện nhưng có trọng tâm, trọng điểm; gắn cụ thể nhiệm vụ, trách nhiệm cho tổ chức, cá nhân cụ thể theo phương châm rõ người, rõ việc, rõ tiến độ, rõ trách nhiệm và rõ kết quả. Kiện toàn và củng cố đội ngũ cán bộ, phải chọn được đúng người và giao đúng việc; kịp thời thay thế cán bộ trì trệ không chịu làm bằng cán bộ năng nổ, trách nhiệm. Cụ thể hóa cơ chế khuyến khích và bảo vệ được cán bộ năng động sáng tạo, dám nghĩ dám làm.
Hai là, nâng cao chất lượng công tác phối hợp, trao đổi thông tin giữa các sở, ban, ngành, đơn vị, địa phương; phát huy vai trò tham mưu cho chính quyền trong cập nhật, theo dõi, đôn đốc thực hiện nhiệm vụ được giao; chủ động, linh hoạt trong công tác thẩm định, xem xét giải quyết các vấn đề có liên quan thuộc lĩnh vực phụ trách theo quy định; kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, những vấn đề mới phát sinh và các vấn đề chưa rõ trong các quyết định, chính sách của Nhà nước; đề xuất các giải pháp có tính đột phá nhằm hỗ trợ tốt nhất cho DN, tránh kéo dài, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, KD, đầu tư của DN... Tăng cường phối hợp với các tổ chức hội DN trên địa bàn tỉnh, tạo điều kiện để cộng đồng DN tham gia phản biện các cơ chế, chính sách của nhà nước có liên quan đến DN.
Ba là, thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện giải quyết những khó khăn, vướng mắc mà DN đã kiến nghị, từ đó tạo dựng lòng tin của DN đối với quyết tâm cải thiện môi trường KD và tinh thần cầu thị chính quyền tỉnh.
Bốn là, tăng cường phối hợp với Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tổ chức các hoạt động tuyên truyền, tập huấn nâng cao nhận thức về công tác cải thiện môi trường đầu tư, KD; chủ động nghiên cứu, thực hiện các giải pháp mới và học tập kinh nghiệm thực tiễn cải thiện môi trường đầu tư KD ở các địa phương khác để triển khai phù hợp trên địa bàn tỉnh. Chuẩn hóa bộ dữ liệu Chỉ số đánh giá năng lực cạnh tranh cấp sở, ngành, địa phương (DDCI) để đưa kết quả chỉ số DDCI là một trong các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của các cấp ủy, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị hàng năm.
Thứ tư: Về chỉ số thiết chế pháp lý và an ninh trật tự
Một là, tiếp tục nâng cao vai trò, chất lượng hoạt động của Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước, nhất là nâng cao chất lượng tham gia tố tụng, đại diện ngoài tố tụng của đội ngũ trợ giúp viên pháp lý trong việc bào chữa, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đối tượng được trợ giúp pháp lý khi có yêu cầu và tư vấn pháp luật cho các DN khi được giao nhiệm vụ.
Hai là, tòa án nhân dân tỉnh chú trọng nâng cao hiệu quả, chất lượng công tác giải quyết, xét xử các vụ án; bảo đảm quyền lợi, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức; góp phần cải thiện môi trường đầu tư, KD trên địa bàn tỉnh. Công khai, minh bạch, rút ngắn thời gian thụ lý, xét xử các vụ án; hạn chế tiến tới xóa bỏ chi phí không chính thức trong quá trình xét xử; nâng cao chất lượng hoạt động của tòa án; phối hợp với các cơ quan tư pháp cùng cấp tham gia thực hiện các giải pháp để nâng cao chất lượng thi hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, hoạt động xét xử các vụ án, tiếp tục thực hiện quy chế phối hợp, kiểm tra chéo nhằm tạo niềm tin vào hệ thống pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân và DN.
Ba là, tiếp tục thực hiện tốt công tác bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Tăng cường công tác quản lý địa bàn, đối tượng không để xảy ra hoạt động băng nhóm bảo kê có tính chất côn đồ, xã hội đen, đe dọa các hoạt động hợp pháp của các DN trên địa bàn.
Thứ năm: Về chỉ số Chi phí không chính thức
Một là, nâng cao hiệu quả công việc trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị trên địa bàn tỉnh, thực hiện nghiêm kỷ luật, kỷ cương hành chính, thường xuyên kiểm tra, đôn đốc thực hiện nhiệm vụ được giao, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong thực thi công vụ; năng động, gương mẫu thực hiện đúng chức trách, nhiệm vụ được giao; chịu trách nhiệm nếu cán bộ thuộc quyền quản lý gây khó khăn phiền hà, nhũng nhiễu. Hằng năm, thực hiện việc rà soát, đánh giá năng lực, trách nhiệm, đạo đức công vụ của đội ngũ công chức để thực hiện điều động, luân chuyển, đặc biệt là đội ngũ cán bộ, công chức thường xuyên tiếp xúc với DN, người dân; xây dựng cơ chế giám sát hiệu quả, thực hiện luân chuyển ngay và xử lý nghiêm đối với công chức có thái độ, hành vi gây khó khăn, tiêu cực khi thực hiện giải quyết TTHC, từ đó lựa chọn công chức phù hợp, đủ năng lực, trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp để thực hiện.
Hai là, tiếp tục đẩy mạnh chuyển đổi số, xây dựng chính quyền điện tử, chính quyền số; trong đó tập trung vào việc rà soát và nâng cao hiệu quả triển khai dịch vụ công trực tuyến; tăng số lượng dịch vụ công toàn trình; đẩy mạnh tiến độ thực hiện thanh toán trực tuyến; tích hợp, kết nối, chia sẻ dữ liệu phục vụ công tác quản lý nhà nước trong các cơ quan, đơn vị nhằm giảm chi phí thời gian, chi phí không chính thức. Đồng thời, cần tăng cường công tác hỗ trợ, tuyên truyền tới cộng đồng DN về thực hiện TTHC trực tuyến; phổ biến các kênh thông tin tiếp nhận, nắm bắt phản ánh, kiến nghị của nhà đầu tư, DN trên các cổng thông tin điện tử; thực hiện lấy ý kiến thăm dò qua phiếu điều tra; tiếp nhận thông tin từ đường dây nóng, hộp thư điện tử; phối hợp với các hiệp hội, Hội DN để lấy ý kiến đánh giá. song song với nâng cấp, cải thiện hạ tầng kỹ thuật để tạo thuận lợi cho việc thực hiện TTHC trực tuyến.
Ba là, rà soát, tham mưu, đề xuất điều chỉnh giảm các cuộc thanh tra, kiểm tra đối với các DN. Quán triệt, yêu cầu các đơn vị khi tiến hành các hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với DN phải có chương trình, kế hoạch rõ ràng; tuân thủ nghiêm các quy định của pháp luật, chỉ đạo của UBND tỉnh, hạn chế thấp nhất việc ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất, KD của DN.
Kết luận: Trong những năm qua, chất lượng điều hành kinh tế cấp tỉnh của Nghệ An đã có những cải thiện nhất định, nhưng vẫn còn nhiều vấn đề cần khắc phục. Đặc biệt, chi phí không chính thức, môi trường cạnh tranh chưa bình đẳng và trở ngại trong tiếp cận đất đai là những vấn đề nổi cộm cần được giải quyết. Thời gian tới cần tăng cường CCHC bảo đảm thực chất, giảm thiểu chi phí không chính thức; bảo đảm sự minh bạch và công bằng trong các hoạt động KD; giải quyết trở ngại trong tiếp cận đất đai; đề cao tính năng động, tiên phong của chính quyền tỉnh trong bảo đảm sự ổn định, nhất quán của môi trường KD cũng như việc thực hiện các cam kết cải thiện môi trường KD.
Cao Nguyên Hùng
PGĐ Trung tâm XTĐT-TM&DL Nghệ An