Tỉnh Nghệ An có diện tích lớn nhất cả nước với hơn 16.490 km2, có đường biên giới Việt - Lào dài 468 km và 82 km bờ biển; có 21 đơn vị hành chính cấp huyện (trong đó có 11 huyện, thị xã khu vực miền núi); 460 xã, phường, thị trấn; 3.804 khối, xóm, bản. Dân số toàn tỉnh hơn 3,3 triệu người, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số có hơn 491.000 người (chủ yếu là dân tộc Thái, Thổ, Khơ mú, Mông, Ơ Đu và tộc người Đan Lai), đồng bào theo các tôn giáo có khoảng 390.000 người.
Đảng bộ tỉnh Nghệ An hiện có 28 đảng bộ trực thuộc (gồm 21 đảng bộ huyện, thành, thị; 2 đảng bộ khối; 3 đảng bộ lực lượng vũ trang và 02 tổ chức cơ sở đảng trực thuộc được giao một số quyền cấp trên cơ sở) với 1.422 tổ chức cơ sở đảng, 195.058 đảng viên; cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý có 327 đồng chí, cán bộ diện ban thường vụ cấp ủy huyện và tương đương quản lý có 6.401 đồng chí; cán bộ thuộc diện giám đốc, thủ trưởng các sở, ban, ngành trực tiếp quản lý có 753 đồng chí; cấp ủy tỉnh có 61 đồng chí, cấp ủy cấp trên cơ sở có 879 đồng chí, cấp ủy cơ sở có 10.389 đồng chí (số liệu tính đến 30/6/2022).
Tính đến đầu năm 2022, có 57.234 cán bộ, công chức, viên chức đang làm việc (1.710 cán bộ thuộc các cơ quan khối Đảng, Mặt trận Tổ quốc, tổ chức chính trị - xã hội và các đơn vị trực thuộc Tỉnh ủy, trong đó cấp tỉnh là 440 cán bộ, cấp huyện và tương đương là 1.270 cán bộ; các cơ quan khối Nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập là 55.524 cán bộ, trong đó cấp tỉnh 15.435 cán bộ, cấp huyện 40.089 cán bộ; riêng cấp xã có 9.677 cán bộ, công chức (4.774 cán bộ, 4.903 công chức). Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có số lượng lớn, có sự khác biệt về vùng miền, điều kiện kinh tế - xã hội nên việc quản lý đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có nhiều thuận lợi nhưng cũng có không ít khó khăn, thách thức.
Thời gian qua, cấp ủy các cấp tỉnh Nghệ An đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về công tác quản lý cán bộ, công chức, viên chức đáp ứng yêu cầu công tác xây dựng Đảng trong sạch, xây dựng chính quyền vững mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, nâng cao chất lượng phục vụ Nhân dân, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội…
Từ ngày 19/5/2018 đến ngày 30/10/2022, có 57 cán bộ, công chức, viên chức bị tạm đình chỉ công tác, trong đó có 22 cán bộ, 28 công chức, 07 viên chức. Có 57 cán bộ, công chức bị tạm định chỉ công tác do người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, đơn vị ra quyết định, trong đó 22 cán bộ, 28 công chức, 07 viên chức. Qua tổng hợp báo cáo từ các đơn vị, cho thấy việc tạm đình chỉ công tác đối với cán bộ, công chức, viên chức với các lý do cụ thể sau: Bị bắt, tạm giam theo quyết định của Tòa án, Viện Kiểm sát để phục vụ công tác điều tra theo quy định của pháp luật 16 người; bị khởi tố bị can (Công an khởi tố) 16 người (14 người lạm dụng chiếm đoạt tài sản, liên quan đến Luật Đất đai, 01 người giả mạo giấy tờ, 01 người vi phạm pháp luật khác; lợi dụng chức vụ, quyền hạn (theo thẩm quyền của người đứng đầu) 03 người liên quan đến vi phạm chính sách đất đai và chính sách khác; làm rõ trách nhiệm, thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao (theo thẩm quyền của người đứng đầu) 15 người, trong đó 09 người liên quan đến công tác phòng, chống dịch bệnh Covid-19, 06 người liên quan đến việc thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao (tồn đọng công việc…); vi phạm quy định khác của pháp luật (theo thẩm quyền của người đứng đầu) 07 người (01 người đánh bạc ăn tiền, 01 người vi phạm luật giao thông đường bộ, 01 người có hành vi xâm phạm sức khỏe, nhân phẩm người khác, 03 người vi phạm chính sách dân số-kế hoạch hóa gia đình, 01 người vi phạm giờ hành chính).
Có thể thấy rằng, đội ngũ cán bộ công chức, viên chức đã thực hiện đúng, đầy đủ và chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao theo đúng quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước nên việc tạm đình chỉ công tác đối với cán bộ, công chức, viên chức có số lượng ít, tỷ lệ thấp (57 người bị tạm đình chỉ/57.234 người, chiếm tỷ lệ 0,099%). Tại một số cơ quan, đơn vị khi phát hiện cán bộ, công chức, viên chức có dấu hiệu vi phạm các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước (tự phát hiện hoặc do cơ quan công an, thanh tra… phát hiện) người đứng đầu đã chủ động, kịp thời ban hành quyết định tạm đình chỉ công tác để xem xét, xử lý kỷ luật hoặc phục vụ công tác điều tra… Việc tạm đình chỉ công tác đối với cán bộ, công chức, viên chức do người đứng đầu quyết định và được thực hiện đúng quy định; trong thời gian bị tạm đình chỉ công tác vẫn được hưởng các quyền lợi, chế độ, chính sách theo quy định của pháp luật. Việc tạm đình chỉ công tác đối với cán bộ, công chức, viên chức tuy có tác động về tâm tư, tình cảm, tư tưởng và làm gián đoạn hành vi thực hiện công vụ, nhiệm vụ theo vị trí việc làm được giao nhưng có ý nghĩa giáo dục, thuyết phục và khắc phục hạn chế, thiếu sót, đồng thời nâng cao trách nhiệm về kết quả việc thực thi công vụ, nhiệm vụ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xem xét, xử lý kỷ luật; phục vụ có hiệu quả cho công tác điều tra, truy tố, xét xử… Việc ra quyết định tạm đình chỉ công tác của người đứng đầu đối với cán bộ, công chức, viên chức (để xem xét, xử lý kỷ luật; trong thời gian tạm giam, tạm giữ phục vụ công tác điều tra, truy tố…) được thực hiện nghiêm túc, đúng quy định (100% cán bộ, công chức, viên chức bị đình chỉ công tác đều do người đứng đầu ra quyết định bằng văn bản; trong văn bản đều thể hiện các thông tin về chủ thể bị tạm đình chỉ công tác, thời hạn, thời hiệu, hiệu lực của quyết định tạm đình chỉ; quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của người bị tạm đình chỉ công tác). Người đứng đầu chấp hành nghiêm quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, không có tình trạng lạm quyền, thể hiện vai trò, trách nhiệm của cá nhân trong việc ra quyết định tạm đình chỉ công tác đối với cán bộ, công chức, viên chức (giao cho cơ quan, bộ phận làm công tác tổ chức, cán bộ xác minh, kiểm tra và tham mưu xử lý; trao đổi, bàn bạc...). Khi có căn cứ (căn cứ tính chất, mức độ của từng trường hợp cụ thể…) ra quyết định hoặc đề nghị người có thẩm quyền quản lý cán bộ, công chức, viên chức quyết định tạm đình chỉ công tác đối với cán bộ, công chức, viên chức.
Tuy nhiên, việc quyết định tạm đình chỉ công tác cán bộ, công chức, viên chức còn gặp bất cập do các văn bản hiện nay chỉ quy định 02 trường hợp (đang trong thời gian xem xét xử lý kỷ luật; trong thời gian tạm giam, tạm giữ phục vụ công tác điều tra, truy tố). Mặt khác, trong thực tế cần thực hiện việc tạm đình chỉ công tác đối với cán bộ, công chức, viên chức trong một số tình huống phát sinh có dấu hiệu vi phạm, hành vi vi phạm khác sẽ ảnh hưởng đến việc thực thi công vụ, nhiệm vụ được giao hoặc tương lai sẽ có hành vi vi phạm liên quan đến việc thực thi công vụ, nhiệm vụ theo vị trí, việc làm của cán bộ, công chức, viên chức và hậu quả bất lợi có thể xẩy ra gây thiệt hại cho cơ quan, đơn vị hoặc tổ chức, cá nhân khác. Hiện nay có nhiều văn bản quy định về tạm đình chỉ công tác đối với cán bộ, công chức, viên chức và thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu trong việc tạm đình chỉ công tác đối với cán bộ, công chức, viên chức (các quy định của Đảng và các văn bản luật, như Luật Cán bộ, công chức; Luật Viên chức; Nghị định số 59/2013/NĐ-CP về Quy định chi tiết một số điều của Luật Phòng, chống tham nhũng…) nên dẫn đến việc xác định hành vi và căn cứ áp dụng quy định có sự chưa thống nhất đồng bộ. Một số quy định còn chung chung, chưa cụ thể về thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu; quy trình, thủ tục để ra quyết định tạm đình chỉ, quy định cụ thể, chi tiết về các hành vi vi phạm có thể tạm đình chỉ công tác đối với cán bộ, công chức, viên chức. Một số người đứng đầu chưa kịp thời nắm bắt tư tưởng, thông tin, hành vi của cán bộ, công chức, viên chức có dấu hiệu vi phạm các quy định của Đảng và pháp luật Nhà nước./.
Phan Thanh Đoài, Phó Trưởng ban Dân vận Tỉnh ủy
Nguyễn Chí Cương, Ban Tổ chức Tỉnh ủy