Banner Ban tổ chức tỉnh ủy sub-site-1

Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào

Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam là tài sản tinh thần vô giá mà Người để lại cho Đảng, nhân dân Việt Nam và Đảng, nhân dân Lào. Tiếp tục học tập, nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào trong hoạt động thực tiễn là một trong những nhiệm vụ cần thiết để không ngừng vun đắp mối quan hệ mẫu mực, thuỷ chung, trong sáng đời đời bền vững giữa hai Đảng, hai dân tộc lên tầm cao mới.

 

Trong mối quan hệ Việt Nam - Lào từ xa xưa đến đầu thế kỷ XX, tinh thần hữu nghị nương tựa, giúp đỡ lẫn nhau chiếm vị trí chủ đạo, nổi bật nhất là khi hai nước phải đương đầu với hoạ ngoại xâm. Song, đó vẫn là quan hệ tự phát và sau đó phát triển thành quan hệ tự giác dưới ánh sáng soi đường đấu tranh giành độc lập, tự do của Hồ Chí Minh và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương.

Nếu người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành là người đầu tiên nhận biết sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam nói riêng và Đông Dương nói chung đang thiếu lý luận và đường lối cách mạng đúng đắn dẫn đường đi tới thắng lợi, và điều đó chính là động lực thôi thúc Người đi ra nước ngoài nghiên cứu thực tế và lý luận để xác định con đường cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam và Lào, Campuchia, đang cùng chung cảnh ngộ nô lệ dưới ách thống trị của thực dân Pháp.

Với tấm lòng yêu nước thương dân và ý chí sắt đá phát hiện chân lý giải phóng dân tộc, trải qua quá trình khảo nghiệm đầy khó khăn, gian khổ, Người đã chuẩn bị cho mình vốn hiểu biết rất đúng đắn, sâu sắc về chủ nghĩa đế quốc và các dân tộc bị áp bức, về những hạn chế của cách mạng tư sản trên bình diện giải phóng người lao động và sức mạnh to lớn của các dân tộc thuộc địa. Người đã vượt qua con đường cách mạng dân chủ tư sản và tiếp nhận chủ nghĩa Mác - Lênin mà theo Người, giá trị cao quý nhất của học thuyết cách mạng đó là lập trường của giai cấp vô sản: giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người; quan điểm cách mạng triệt để “nghĩa là làm sao cách mạng rồi thì chuyển giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người… thế dân chúng mới được hạnh phúc”[1]. Phép biện chứng duy vật đó là những căn cứ then chốt để vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam, cách mạng Đông Dương và cách mạng giải phóng thuộc địa. Từ đó, Nguyễn Ái Quốc xác lập cho Đông Dương con đường giải phóng khỏi ách thống trị thuộc địa và xây dựng đất nước phát triển theo xu thế của thời đại mới:

- Cách mạng Đông Dương là cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, đặt dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản.

- Sự nghiệp cách mạng của ba nước Đông Dương do nhân dân ba nước Đông Dương tiến hành: “Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương đang dấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến. Bộ phận ưu tú có nhiệm vụ phải thúc đẩy cho thời cơ đó mau đến”[2]. Thắng lợi của sự nghiệp cách mạng đó sẽ hỗ trợ đắc lực cho công cuộc cách mạng của giai cấp vô sản Pháp.

Cùng với những luận điểm trên, Người đề xuất những luận điểm về mối quan hệ dân tộc - quốc tế, một nhân tố chi phối sự hình thành quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam. Từ năm 1924, Nguyễn Ái Quốc cho rằng: “chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước”[3], và đề nghị Quốc tế Cộng sản “phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ” với lý do: “Giờ đây, người ta sẽ không thể làm gì được cho người An Nam nếu không dựa trên cái động lực vĩ đại và duy nhất của đời sống xã hội của họ”[4]. Chủ nghĩa dân tộc theo quan niệm của Hồ Chí Minh, là chủ nghĩa dân tộc chân chính, không chỉ bao hàm tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, điểm đồng thuận thắt chặt khối đại đoàn kết dân tộc, mà còn là động lực đưa dân tộc này đến với dân tộc khác vì mục tiêu đấu tranh giành độc lập, tự do và hoà bình, tiến bộ xã hội, giúp đỡ nhau và tôn trọng quyền dân tộc cơ bản của mỗi quốc gia. Chủ nghĩa dân tộc chân chính theo ý nghĩa đó đã bao hàm một bộ phận của tinh thần quốc tế.

Tinh thần ấy được cụ thể hoá đậm nét hơn trong tiến trình phát triển quan hệ giữa ba dân tộc Việt, Lào, Miên (Campuchia) và quan hệ Việt Nam - Lào. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 Đảng Cộng sản Đông Dương (tháng 5 - 1941), dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, xác định: các dân tộc Đông Dương đều phải chịu chung một ách thống trị của phát xít Pháp - Nhật, cho nên phải đoàn kết lại đánh đuổi kẻ thù chung. Song, Đảng phải hết sức tôn trọng và thi hành đúng quyền “dân tộc tự quyết” đối với các dân tộc ở Đông Dương. Sau khi giành được độc lập, các dân tộc sẽ tuỳ theo ý muốn mà tổ chức thành Liên bang cộng hoà dân chủ hay đứng riêng thành một quốc gia dân tộc “Sự tự do, độc lập của các dân tộc sẽ được thừa nhận và coi trọng”[5].

Trên các chặng đường phát triển của cách mạng hai nước Việt Nam và Lào, lãnh tụ Hồ Chí Minh luôn luôn chăm lo xây dựng, vun đắp quan hệ đoàn kết đặc biệt Việt - Lào, nhằm thực hiện thành công mục tiêu của hai dân tộc.

Giữa Tháng Tám năm 1945, thời cơ giành độc lập cho Việt Nam và Lào xuất hiện, lãnh tụ Hồ Chí Minh và Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương quyết định Tổng khởi nghĩa và tiến hành Hội nghị toàn Đảng tại Tân Trào, Tuyên Quang từ ngày 13-15/8/1945. Vào thời điểm đó, Người căn dặn: thời cơ rất thuận lợi cho nhân dân Đông Dương, ở đâu có điều kiện, phải giành được chính quyền trước khi Đồng minh vào. Pháp và Đồng minh Anh, Mỹ gắn bó với nhau. Pháp sẽ núp sau Đồng minh để trở lại xâm lược Việt Nam, Lào, Miên, chúng ta phải đoàn kết để đánh kẻ thù chung.

Đúng như nhận định của lãnh tụ Hồ Chí Minh, sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám không bao lâu, thực dân Pháp trở lại xâm lược Việt Nam, Lào và hai dân tộc lập tức cùng sát cánh bên nhau chống ngoại xâm.

Trong cuộc kháng chiến vô cùng gian khổ chống thực dân Pháp trường kỳ, gian khổ, Người xác định trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và quân dân Việt Nam là thực hiện nghĩa vụ quốc tế đối với cách mạng Lào theo tinh thần: giúp bạn là mình tự giúp mình. Quan điểm đó của Người như một chân lý vĩnh hằng, thể hiện bản chất cách mạng trong sáng, cao quý của quan hệ dân tộc - quốc tế trong thời đại mới. Tại diễn đàn Đại hội II Đảng Cộng sản Đông Dương, tháng 2/1951, Người nêu rõ trong Báo cáo Chính trị: “Chúng ta kháng chiến, dân tộc bạn Miên, Lào cũng kháng chiến. Bọn thực dân Pháp và can thiệp Mỹ là kẻ thù của ta và của dân tộc Miên, Lào. Vì vậy, ta phải ra sức giúp đỡ anh em Miên, Lào, giúp đỡ kháng chiến Miên, Lào và tiến đến thành lập Mặt trận Thống nhất các dân tộc Việt - Miên - Lào”[6].

Sau Hiệp định Giơne vơ, tháng 7/1954, đế quốc Mỹ từng bước thay chân thực dân Pháp và thực thi chủ nghĩa thực dân mới ở Việt Nam và Lào. Đến tháng 6/1959, tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Người vạch rõ bản chất xâm lược của đế quốc Mỹ tại Lào và một lần nữa nhấn mạnh trách nhiệm của Việt Nam trong việc thực hiện nghĩa vụ giúp đỡ cách mạng Lào; đồng thời, Người chỉ dẫn phương hướng phát triển của cách mạng Lào là chuyển sang hình thức vũ trang, vì kẻ thù đã dùng vũ trang tấn công cách mạng.

Cùng với những nội dung quan trọng của nhiệm vụ quốc tế mà cách mạng Việt Nam cần thực hiện đối với cách mạng Lào. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú trọng giáo dục cán bộ Việt Nam chấp hành các phương pháp phối hợp công tác với cán bộ Lào: giúp bạn để bạn tiến bộ và có thể tự làm lấy, vì giúp nhiều cũng chỉ được 1/10 còn tự lực là 9/10. Về quan hệ công tác giữa cán bộ Việt Nam và cán bộ Lào, Người căn dặn:

“Thật thà về tinh thần và trong công tác

Thật thà tự phê bình và phê bình lẫn nhau

Cán bộ Việt Minh tuyệt đối tránh bao biện

Cán bộ Lào thì nên tránh khách khí”[7].

Công tác xây dựng Đảng vững mạnh, nhân tố hàng đầu quyết định sự thành công của cách mạng như Người đã khẳng định trong tác phẩm Đường Kách mệnh, cũng hoàn toàn phù hợp với nhiệm vụ kiến lập và phát triển quan hệ Việt - Lào: “Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận dộng và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi xứ. Đảng có vững cách mạng mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy”[8].

Chính Người đã chủ động, sáng tạo thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và soạn thảo Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng vào đầu năm 1930, đến tháng 10 cùng năm, đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương. Trải qua 21 năm phấn đấu lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của Việt, Miên, Lào đã đưa tới thắng lợi của công cuộc đấu tranh giành độc lập Tháng Tám năm 1945 của Việt Nam và Lào; đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, chứng tỏ sự trưởng thành vượt bậc của Đảng. Do vậy, Đại hội II của Đảng, tháng 2/1951, theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Ban Chấp hành Trung ương Đảng, trên nền tảng Đảng Cộng sản Đông Dương, phát triển thành ba Đảng đảm đương lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của ba dân tộc Việt Nam, Lào và Miên. Về chủ trương này, cả Lào và Miên đều tỏ ý tán thành.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội II của Đảng về nhiệm vụ của Đảng Lao động Việt Nam giúp đỡ những đồng chí cộng sản Lào thành lập đảng của mình, Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam đã nêu ý kiến xác định tiêu chuẩn đảng viên và nhấn mạnh tiêu chuẩn trung thành kháng chiến và tinh thần phục vụ nhân dân; trình bày các bước tiến hành về tổ chức để chuẩn bị đại hội thành lập đảng của các bạn Lào. Nhờ hoạt động tích cực với trách nhiệm cao của đội ngũ lãnh đạo và cán bộ Lào, Việt Nam, Đại hội thành lập Đảng Nhân dân Lào được tiến hành vào mùa Xuân năm 1955 và thành công tốt đẹp, tạo điều kiện rất quan trọng cho thắng lợi cách mạng Lào và thúc đẩy sự phát triển của quan hệ đặc biệt Lào - Việt Nam.

Là hai nước láng giềng rất mực thân thiết, gần gũi, quan hệ gắn kết nghĩa tình anh em giữa hai dân tộc đã được hình thành và hun đúc trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước và đặc biệt trong gần một thế kỷ qua kể từ thời kỳ Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời và lãnh đạo phong trào cách mạng chung, mối quan hệ truyền thống tốt đẹp, sự gắn bó thủy chung giữa nhân dân hai nước Việt Nam - Lào được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Cayxỏn Phomvihẳn đặt nền móng, được các thế hệ lãnh đạo kế tục của hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước dày công vun đắp đã trở thành tài sản vô giá của cả hai dân tộc và là quy luật phát triển chung của cách mạng hai nước trên con đường phát triển đất nước phồn vinh, nhân dân ấm no, hạnh phúc. Bước vào thời kỳ mới, thời kỳ xây dựng đất nước trong hòa bình và quá độ đi lên CNXH, quan hệ hai nước chuyển từ quan hệ đoàn kết trong chiến đấu chống kẻ thù chung sang quan hệ hữu nghị, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân Cách mạng Lào. Ngày 18-7-1977, hai nước ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác. Hiệp ước có ý nghĩa vô cùng quan trọng, là cơ sở pháp lý vững chắc cho việc tăng cường và mở rộng mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào trong thời kỳ mới; tạo cơ sở để hai nước thúc đẩy ký kết hàng loạt các thỏa thuận hợp tác sau này. Trong quá trình hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau sau chiến tranh, Việt Nam đã cử nhiều đoàn chuyên gia sang giúp Lào bảo đảm an ninh, ổn định đời sống, khôi phục sản xuất và phát triển kinh tế. Quan hệ hợp tác đó được thực hiện trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau; đề cao ý chí tự lực, tự cường, hợp tác bình đẳng và cùng có lợi.

Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, trong công cuộc đổi mới của mỗi nước trong gần 40 năm qua, Việt Nam và Lào đều giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Quan hệ hợp tác, hữu nghị, đặc biệt gắn bó giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân nước được đẩy mạnh và không ngừng mở rộng trên nhiều lĩnh vực. Quan hệ chính trị giữa hai nước đã và đang phát triển trên một nền tảng sâu rộng và ngày càng vững chắc. Đến nay, các cuộc tiếp xúc cấp cao giữa lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ và địa phương hai bên được tiến hành thường xuyên; Ủy ban liên Chính phủ thường niên được duy trì và củng cố. Giao lưu giữa các tổ chức, các tầng lớp nhân dân ngày càng nhộn nhịp, hình thức ngày càng phong phú. Cùng với quan hệ chính trị tốt đẹp sẵn có, quan hệ hợp tác kinh tế Việt Nam - Lào trong những năm gần đây ngày càng khởi sắc, tạo nền tảng vật chất để liên kết và củng cố mối quan hệ đặc biệt giữa hai nước. Trong bối cảnh mới, trước những biến động phức tạp và khó lường của tình hình thế giới và yêu cầu phát triển của mỗi nước, Việt Nam và Lào đặt ưu tiên cao nhất là cùng phấn đấu tập trung mọi nỗ lực nhằm nâng quan hệ hữu nghị truyền thống tình đoàn kết đặc biệt và sự hợp tác toàn diện lên tầm cao mới, với phương châm thực chất, chất lượng và hiệu quả, góp phần giữ vững ổn định an ninh chính trị, phát triển kinh tế bền vững, hội nhập ngày càng sâu rộng và có vị thế trên trường quốc tế.

Nghệ An và các tỉnh của nước bạn Lào (Hủa Phăn, Xiêng Khoảng, Bôlykhămxay) có mối quan hệ hữu nghị truyền thống, đã luôn sát cánh bên nhau, chia ngọt sẻ bùi với tinh thần “hạt gạo cắn đôi, cọng rau bẻ nửa” để cùng nhau chiến thắng kẻ thù. Trong những năm tháng chiến tranh, Nghệ An chính vừa là hậu phương vững chắc cho hàng vạn cán bộ, chiến sĩ, nhân dân các bộ tộc Lào, vừa cùng bạn tham gia chiến đấu giành độc lập, tự do cho hai dân tộc. Bước vào giai đoạn mới, mối quan hệ đặc biệt giữa hai dân tộc, hai đất nước tiếp tục được phát triển toàn diện và nâng lên một tầm cao mới. Mối quan hệ hợp tác giữa Nghệ An với các tỉnh của nước bạn Lào tiếp tục đạt được những thành tựu nổi bật trên cả 3 trụ cột là đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân.

Hàng năm, Nghệ An và các tỉnh của Lào thường xuyên trao đổi các đoàn cấp cao, tham dự các sự kiện, ngày lễ trọng đại của hai bên; tổ chức các đoàn thăm và làm việc, trao đổi kinh nghiệm. Cùng với đó các hoạt động trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ biên giới được triển khai chặt chẽ, góp phần quan trọng vào việc củng cố và phát triển an ninh - quốc phòng, bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của mỗi quốc gia; đồng thời, bảo đảm môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội, thu hút hợp tác đầu tư, thương mại. Đường biên giới giữa tỉnh Nghệ An và 3 tỉnh Hủa Phăn, Xiêng Khoảng, Bôly khăm xay thực sự là đường biên giới hoà bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển.

Nguyễn Hồng Vui, Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh uỷ 

--------------

[1], [8]. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia.H.2011, t.2, tr.292, 289.

[2],[3], [4]. Sđd. T.1, tr.40, 511, 513.

[5]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2000, T.7, tr.112.

[6], Sđd. T.12, tr.303.

[7]. Lời Chủ tịch Hồ Chí Minh ghi tại bản Quy định chế độ làm việc của cố vấn và cán bộ Việt Nam với Chính phủ và cán bộ cách mạng Lào, ngày 5/5/1953, tài liệu lưu tại Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam.

 

Tin cùng chuyên mục

Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An Võ Trọng Hải thăm, kiểm tra hoạt động tại xã Nậm Cắn

Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An Võ Trọng Hải thăm, kiểm tra hoạt động tại xã Nậm Cắn


Quốc hội thảo luận điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050

Quốc hội thảo luận điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050


Kết quả nổi bật của thực hiện dân chủ cơ sở năm 2025 ở Nghệ An

Kết quả nổi bật của thực hiện dân chủ cơ sở năm 2025 ở Nghệ An


Thường trực Tỉnh ủy tổ chức Hội nghị giao ban Khối nội chính tháng 11, triển khai nhiệm vụ tháng 12 năm 2025

Thường trực Tỉnh ủy tổ chức Hội nghị giao ban Khối nội chính tháng 11, triển khai nhiệm vụ tháng 12 năm 2025


Tập huấn quản trị phần mềm Hệ thống thông tin điều hành tác nghiệp cơ quan Đảng

Tập huấn quản trị phần mềm Hệ thống thông tin điều hành tác nghiệp cơ quan Đảng


Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Khắc Thận chủ trì phiên họp Ban Thường vụ Tỉnh ủy

Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Khắc Thận chủ trì phiên họp Ban Thường vụ Tỉnh ủy


Phát huy kết quả công tác tuyên giáo – dân vận năm 2025, triển khai nhiệm vụ năm 2026

Phát huy kết quả công tác tuyên giáo – dân vận năm 2025, triển khai nhiệm vụ năm 2026



Phiên thứ nhất, Đại hội đại biểu phụ nữ Nghệ An lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2025 - 2030

Phiên thứ nhất, Đại hội đại biểu phụ nữ Nghệ An lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2025 - 2030


Bí thư Tỉnh ủy Nghệ An Nguyễn Khắc Thận tiếp Thống đốc tỉnh Kaluga, Liên bang Nga

Bí thư Tỉnh ủy Nghệ An Nguyễn Khắc Thận tiếp Thống đốc tỉnh Kaluga, Liên bang Nga


Danh sách Chủ tịch và 8 Phó Chủ tịch, 119 vị Ủy viên Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh Nghệ An khoá XVI

Danh sách Chủ tịch và 8 Phó Chủ tịch, 119 vị Ủy viên Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh Nghệ An khoá XVI


Khai mạc trọng thể Đại hội đại biểu MTTQ Việt Nam tỉnh Nghệ An lần thứ XVI, nhiệm kỳ 2025-2030

Khai mạc trọng thể Đại hội đại biểu MTTQ Việt Nam tỉnh Nghệ An lần thứ XVI, nhiệm kỳ 2025-2030


Bí thư Tỉnh uỷ Nghệ An Nguyễn Khắc Thận chúc mừng Sở Giáo dục và Đào tạo nhân kỷ niệm Ngày Nhà giáo Việt Nam

Bí thư Tỉnh uỷ Nghệ An Nguyễn Khắc Thận chúc mừng Sở Giáo dục và Đào tạo nhân kỷ niệm Ngày Nhà giáo Việt Nam


Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Hoàng Nghĩa Hiếu chúc mừng các trường học nhân Ngày Nhà giáo Việt Nam

Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Hoàng Nghĩa Hiếu chúc mừng các trường học nhân Ngày Nhà giáo Việt Nam


Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An Võ Trọng Hải thăm, chúc mừng các trường học nhân Ngày Nhà giáo Việt Nam

Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An Võ Trọng Hải thăm, chúc mừng các trường học nhân Ngày Nhà giáo Việt Nam