Banner Tỉnh ủy Nghệ An (Home-latest-1)

Quản lý, sử dụng hiệu quả tài chính đảng phục vụ công tác xây dựng Đảng ở cơ sở

Nhiệm vụ kiểm tra tài chính đảng được quy định tại Khoản 11, Điều 3, Quy định số 22-QĐ/TW, ngày 28/7/2021 của Ban Chấp hành Trung ương quy định về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng nêu rõ: “Kiểm tra tài chính đảng là việc các tổ chức đảng có thẩm quyền xem xét, đánh giá, kết luận về ưu điểm, khuyết điểm hoặc vi phạm (nếu có) của đối tượng kiểm tra trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về quản lý tài chính, tài sản của Đảng”.

 

Thực hiện nhiệm vụ kiểm tra tài chính đảng, cấp ủy các cấp đã chú trọng quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức quán triệt triển khai các quy định, hướng dẫn liên quan đến tài chính đảng cho các cấp ủy, UBKT các cấp như: Quyết định số 99-QĐ/TW ngày 30/5/2012 về ban hành Quy định chế độ chi hoạt động công tác đảng của tổ chức cơ sở đảng, đảng bộ cấp trên trực tiếp cơ sở; Hướng dẫn số 21-HD/VPTW ngày 04/3/2013 về một số điểm quy định cụ thể chế độ chi hoạt động công tác đảng của tổ chức cơ sở đảng, đảng bộ cấp trên trực tiếp cơ sở ở trong nước. Quyết định số 342-QĐ/TW ngày 28/12/2010 ban hành Quy định về chế độ đảng phí; Ban Thường vụ cấp ủy ban hành các Quy định, Quy chế về quản lý tài chính của đảng ủy cơ sở; đồng thời tập trung chỉ đạo các cấp ủy cơ sở thực hiện nghiêm túc công tác quản lý thu, chi tài chính đảng đi vào nề nếp, thực hiện bảo đảm nguyên tắc, quy định và tiết kiệm. Qua đó cơ bản các đảng uỷ đã chủ động ban hành các văn bản hướng dẫn công tác tài chính đảng gửi các tổ chức đảng trực thuộc để tổ chức triển khai thực hiện thống nhất và đồng bộ.

Cùng với đó, hằng năm, các cấp ủy đã chỉ đạo và trực tiếp lập kế hoạch kinh phí hoạt động cho công tác Đảng để làm căn cứ lập kế hoạch thu, chi tài chính đảng. Các văn phòng cấp ủy (ở một số doanh nghiệp là Tập đoàn hoặc Tổng Công ty) cũng đã chủ động tham mưu giúp cấp ủy lập kế hoạch, dự toán kinh phí hoạt động công tác đảng từ nguồn đảng phí được giữ lại để thực hiện nhiệm vụ chi cho hoạt động công tác đảng.

Đối với UBKT các cấp cũng đã chủ động tham mưu giúp cấp ủy ban hành văn bản về việc tăng cường công tác kiểm tra tài chính đảng; tổ chức thực hiện kiểm tra tài chính của cơ quan tài chính cấp ủy cùng cấp theo quy định. UBKT các cấp đều phấn đấu trong mỗi nhiệm kỳ kiểm tra tài chính đảng ít nhất 1 lượt đối với cấp ủy cấp dưới và chi bộ cơ sở trực thuộc. Tuy nhiên, hầu hết các UBKT vẫn chủ yếu kiểm tra tài chính đảng đối với việc thu, chi, quản lý và sử dụng đảng phí. Việc kiểm tra trực tiếp các hoạt động sản xuất, kinh doanh có liên quan đã bước đầu được tiến hành ở một số đảng bộ, nhưng còn hạn chế.

Nhìn chung việc thực hiện chế độ chi hoạt động công tác đảng của hầu hết các cấp ủy cấp huyện và tương đương trở xuống cơ bản thực hiện theo đúng Quyết định 99-QĐ/TW của Ban Bí thư về chế độ chi hoạt động công tác đảng và thực hiện chế độ đảng phí theo Quyết định 342-QĐ/TW. Nguồn kinh phí cho hoạt động công tác đảng được đảm bảo; thủ tục chứng từ thanh quyết toán cơ bản đúng quy định. Hằng năm, UBKT của cấp ủy đã triển khai thực hiện kiểm tra cơ quan tài chính đảng cùng cấp theo quy định của Điều lệ Đảng; thực hiện việc phối hợp với cơ quan tài chính để đối chiếu sổ sách, kiểm tra, xác nhận số kinh phí đã chi hoạt động công tác đảng, trình ban thường vụ cấp ủy phê duyệt theo quy định...

Thực hiện công tác kiểm tra tài chính đảng, nhiệm kỳ XII, UBKT các cấp đã kiểm tra 172.126 tổ chức đảng về thu, chi ngân sách và sản xuất kinh doanh, thu nộp, quản lý và sử dụng đảng phí (trong đó UBKT Trung ương kiểm tra 17 tổ chức đảng). Qua kiểm tra, kết luận có 751 tổ chức đảng vi phạm về thu, chi ngân sách, sản xuất kinh doanh với số tiền hơn 475 tỷ đồng, đề nghị xuất toán, thu hồi hơn 290 tỷ đồng; và có 6.775 tổ chức vi phạm về thu, nộp, quản lý, sử dụng đảng phí với số tiền hơn 6,7 tỷ đồng, đề nghị xuất toán, thu hồi 2,9 tỷ đồng; có 1.848 tổ chức đảng và 889 đảng viên vi phạm phải xem xét xử lý kỷ luật... Như vậy, trong nhiệm kỳ XII, công tác kiểm tra tài chính đảng được cấp ủy các cấp quan tâm đã góp phần quan trọng vào việc triển khai thực hiện toàn diện các nhiệm vụ công tác xây dựng Đảng nói chung và công tác kiểm tra, giám sát nói riêng.

Mặc dù nhiệm kỳ qua công tác kiểm tra tài chính đảng đã được cấp ủy quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và đạt nhiều kết quả tích cực, tuy nhiên qua quá trình kiểm tra việc chấp hành chế độ chi hoạt động công tác đảng của một số ban thường vụ cấp ủy vẫn còn một số hạn chế, tồn tại, tập trung ở những vấn đề sau:

Một là, việc quán triệt, triển khai và cụ thể hóa các văn bản, hướng dẫn của Đảng về chế độ đảng phí, chi hoạt động công tác đảng nhiều nơi còn hạn chế, có nơi, việc dự toán thu, chi hoạt động công tác đảng chỉ thực hiện đối với nguồn thu đảng phí được giữ lại, không thực hiện dự toán phần kinh phí cấp chênh lệch, nguồn kinh phí này thường được thực hiện chi theo yêu cầu nhiệm vụ do chuyên môn trực tiếp chi và chứng từ lưu tại cơ quan tài chính chuyên môn, nên không xác định được tổng nguồn thu, chi hoạt động công tác đảng của đảng bộ hằng năm theo Quyết định 99-QĐ/TW của Ban Bí thư về chế độ chi hoạt động công tác đảng.

Hai là, một số cấp ủy chưa thực hiện công khai tài chính trước ban chấp hành đảng bộ theo quy định. Hằng năm, ban thường vụ ở nhiều cấp ủy chưa thực hiện công khai tài chính trước đảng ủy; có nơi có báo cáo thu, chi tài chính đảng được đưa vào báo cáo tổng kết năm, nhưng số liệu chỉ phản ánh số tiền đảng phí được trích lại trong năm và một số khoản chi chính, chủ yếu, các nguồn thu khác như cấp ủy cấp trên hỗ trợ, tiền thu từ các hoạt động tài chính khác không được kê khai đầy đủ; cấp ủy viên cũng ít quan tâm đề cập đến nội dung này vì cho rằng đây là công tác của nội bộ văn phòng cấp ủy.

Ba là, nhiều UBKT đảng ủy không thực hiện kiểm tra tài chính đảng đối với    cơ quan tài chính của cấp ủy cùng cấp theo quy định. Một số đảng ủy chậm sửa đổi, ban hành mới Quy chế quản lý tài chính của đảng ủy cấp mình quản lý. Có nơi vẫn viện dẫn căn cứ xây dựng quy chế là Quyết định số 84/QĐ-TW ngày 01/10/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về việc ban hành quy định “Chế độ chi hoạt động công tác Đảng của tổ chức đảng các cấp” đã hết hiệu lực.

Bốn là, còn khá nhiều tồn tại trong quản lý chứng từ chi tiêu tài chính đảng như: Phiếu chi thiếu thủ tục theo quy định, phiếu thu tiền thiếu chữ ký người nộp tiền, chi tiền khen thưởng tổ chức đảng, đảng viên chưa áp đúng chế độ quy định, thiếu chính xác; việc lập, lưu trữ hồ sơ chưa khoa học. Một số chi bộ thu đảng phí theo quý, thu đảng phí bằng hình thức trích và khấu trừ trực tiếp từ bảng lương của cơ quan; không lập dự toán thu, chi kinh phí hoạt động công tác đảng của cấp mình để báo cáo cấp ủy hoặc gửi cơ quan, đơn vị dự toán cùng cấp trình cấp có thẩm quyền phê duyệt. Chế độ chi hoạt động công tác đảng của một số tổ chức đảng và chi bộ chưa thống nhất và chưa có hướng dẫn cụ thể; một số chi bộ còn lúng túng trong việc quản lý và sử dụng phần đảng phí được giữ lại, chủ yếu giới hạn trong việc chi phục vụ đại hội đảng, chi thăm hỏi đảng viên ốm đau, chi mua văn kiện nghị quyết đại hội đảng các cấp; chi mua văn phòng phẩm... Có nơi để an toàn, nhiều chi bộ cả nhiều nhiệm kỳ giữ nguyên phần đảng phí được trích lại; không dám chi, để dồn lại chuyển cho chi bộ nhiệm kỳ sau.

Để thực hiện tốt nhiệm vụ kiểm tra, giám sát về quản lý và sử dụng tài chính đảng ở cơ sở cũng như phát huy tối đa vai trò của cấp ủy, ban thường vụ và văn phòng cấp ủy trong quản lý và sử dụng có chất lượng, hiệu lực, hiệu quả tài chính đảng, các cấp ủy cần quan tâm thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:

1. Đề xuất, nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Quyết định 99-QĐ/TW của Ban Bí thư; Quyết định 342-QĐ/TW theo hướng tăng cường giao quyền tự chủ trong việc lập dự toán và thu chi tài chính đảng của các tổ chức cơ sở đảng có phê duyệt của văn phòng cấp ủy cấp huyện, quận và tương đương đối với những khoản thu chi tài chính đảng lớn, phục vụ nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết của công tác xây dựng Đảng.

2. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện quản lý và sử dụng tài chính đảng ở cơ sở gắn với chương trình kiểm tra, giám sát hằng năm và theo nhiệm kỳ. Chú trọng kiểm tra, giám sát cơ quan tài chính cấp ủy cùng cấp trong việc quản lý và sử dụng tài chính đảng bảo đảm nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả việc sử dụng tài chính đảng phục vụ đắc lực cho công tác xây dựng Đảng của cấp ủy. Ngăn chặn kịp thời các biểu hiện vi phạm trong sử dụng tài chính và tài chính đảng, cùng các tài sản khác của Đảng.

3. Xây dựng quy chế và tổng kết thực tiễn việc triển khai thực hiện việc khoán chi, khoán công tác phí trong sử dụng tài chính đảng nhằm phát huy tự chủ của cấp ủy các cấp trong quản lý và sử dụng tài chính đảng; sửa đổi một số quy định về chế độ chi cho phù hợp với quy định hiện hành của nhà nước và các đoàn thể, bảo đảm quản lý chặt chẽ tài chính đảng theo đúng quy định mà không cần phải "vận dụng linh hoạt” cho phù hợp với thực tế.

4. Tăng cường tập huấn việc quản lý và sử dụng tài chính đảng và hệ thống sổ sách, bảng biểu thu, chi tài chính đảng ngay từ đầu mỗi nhiệm kỳ; tập huấn thường xuyên để phổ biến, hướng dẫn các trường hợp mới được cấp ủy bổ sung tham gia nhiệm vụ quản lý và sử dụng tài chính đảng ở cấp chi bộ trở lên. Bổ sung các quy định về nâng cao trách nhiệm trong quản lý sử dụng tài chính đảng của đảng ủy, chi bộ và của cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy các cấp.

ThS. Hà Công Nghĩ 

Nguồn: Tạp chí kiểm tra, tháng 11/2021 

Tin cùng chuyên mục

Nhận diện quá trình từ suy thoái về tư tưởng chính trị đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”

Nhận diện quá trình từ suy thoái về tư tưởng chính trị đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”


Xây dựng văn hóa kiểm tra giúp công tác kiểm tra, giám sát của Đảng phát triển bền vững

Xây dựng văn hóa kiểm tra giúp công tác kiểm tra, giám sát của Đảng phát triển bền vững


Sự cần thiết ban hành và một số điểm mới trong Quy định số 69-QĐ/TW về kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên vi phạm

Sự cần thiết ban hành và một số điểm mới trong Quy định số 69-QĐ/TW về kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên vi phạm


Đảng bộ thị xã Thái Hòa phát huy vai trò, thẩm quyền của UBKT cơ sở

Đảng bộ thị xã Thái Hòa phát huy vai trò, thẩm quyền của UBKT cơ sở


Công tác kiểm tra, giám sát theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng

Công tác kiểm tra, giám sát theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng



Sự cần thiết ban hành hướng dẫn thực hiện quy trình kép trong một cuộc kiểm tra

Sự cần thiết ban hành hướng dẫn thực hiện quy trình kép trong một cuộc kiểm tra


Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy Nghệ An: Tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong thời gian tới

Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy Nghệ An: Tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong thời gian tới


Nghiên cứu về công tác kiểm tra góp phần hoàn thiện hệ thống lý luận và phương pháp kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng

Nghiên cứu về công tác kiểm tra góp phần hoàn thiện hệ thống lý luận và phương pháp kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng


Bộ Chính trị ban hành Kết luận về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung

Bộ Chính trị ban hành Kết luận về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung


Phát hiện, xử lý các hành vi tiêu cực của cán bộ, đảng viên qua công tác kiểm tra của Đảng

Phát hiện, xử lý các hành vi tiêu cực của cán bộ, đảng viên qua công tác kiểm tra của Đảng


Trách nhiệm, thẩm quyền của Ủy ban Kiểm tra trong kỷ luật tổ chức đảng

Trách nhiệm, thẩm quyền của Ủy ban Kiểm tra trong kỷ luật tổ chức đảng



Sự cần thiết phải sửa đổi, bổ sung một số quy định mới về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng

Sự cần thiết phải sửa đổi, bổ sung một số quy định mới về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng


Sự phối hợp giữa Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy Công an Trung ương với Ủy ban Kiểm tra tỉnh ủy, thành ủy trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Đảng

Sự phối hợp giữa Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy Công an Trung ương với Ủy ban Kiểm tra tỉnh ủy, thành ủy trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Đảng