Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 là một văn kiện lịch sử vô giá, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với cách mạng Việt Nam, chỉ ra con đường vận động, phát triển của nền văn hóa mới Việt Nam nhằm đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Sau 80 năm, những tư tưởng của Đề cương về văn hóa vẫn còn nguyên giá trị được Đảng ta vận dụng, bổ sung, hoàn thiện trong sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế.
1. Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 là một văn kiện lịch sử vô giá
Xuất phát từ tình hình thế giới và trong nước, nhận rõ thời cơ để đánh đổ chế độ thực dân - phát xít và bè lũ tay sai để lập nên chế độ dân chủ, cộng hòa. Trong nhiều công việc quan trọng và cần kíp phải chuẩn bị và tiến hành, Đảng ta, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Tổng Bí thư Trường Chinh đã nhận rõ vai trò, đóng góp to lớn và quan trọng của văn hóa. Vì cách mạng là văn hóa, văn hóa là cách mạng, là đổi mới tận gốc rễ chế độ thực dân- phong kiến sang chế độ dân chủ, cộng hòa, loại bỏ chính sách ngu dân và nô dịch của thực dân - phát xít cũng như những khuynh hướng tư tưởng, văn hóa sai lầm để xây dựng một nền văn hóa mới, lớp người mới của chế độ mới.
Trong bối cảnh và những vấn đề nóng bỏng của đất nước, Tổng Bí thư Trường Chinh đã bắt tay khởi thảo Đề cương về văn hóa Việt Nam. Dù mới ở tầm mức “Đề cương” nhưng Đề cương về văn hóa đã chỉ rõ nguy cơ của nền văn hóa Việt Nam dưới ách đô hộ của thực dân - phát xít, phân tích mối quan hệ giữa cách mạng chính trị và cách mạng văn hóa, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng văn hóa, vạch ra phương hướng đấu tranh đúng đắn chống thực dân - phát xít và bè lũ tay sai, xây dựng đường lối văn hóa mới của Đảng, tập hợp các nhà văn hóa, trí thức, văn nghệ sĩ để tham gia sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Với Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943, lần đầu tiên Đảng Cộng sản Đông Dương đã tạo nên một văn kiện có tính chất như một cương lĩnh văn hóa; xác định nội dung tính chất, tổ chức, định hướng phát triển của một cuộc cách mạng văn hóa chỉ có thể gắn với cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và tương lai của nền văn hóa ấy sau khi cách mạng thành công.
Đề cương về văn hóa xác định rõ 3 nguyên tắc “Dân tộc hóa”, “Đại chúng hóa”, “Khoa học hóa”. Ba nguyên tắc đã trở thành ba phương châm, mục tiêu hành động, là quan điểm xuyên suốt trong quá trình cách mạng và xây dựng nền văn hóa mới.
“Dân tộc hóa” là làm cho văn hóa trực tiếp phục vụ sự nghiệp giải phóng dân tộc, làm cho trí thức có lòng tự hào, dũng cảm đứng lên chịu trách nhiệm của mình trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và phát triển nền văn hóa mới Việt Nam.
“Khoa học hóa” là tạo điều kiện cho nền văn hóa dân chủ mới nhanh chóng thoát khỏi sự kìm hãm ấy, nhằm phát triển về mọi mặt trên cơ sở khoa học, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm kim chỉ nam hướng dẫn mọi suy nghĩ, hành động. Nó gạt ra khỏi đầu óc con người những loại thành kiến, hủ bại, mê tín,dị đoan.
“Đại chúng hóa” là văn hóa của nhân dân phục vụ nhân dân, làm cho mọi người biết đọc, biết viết, biết thưởng thức và tham gia sáng tạo nghệ thuật và dần dần chiếm lĩnh các giá trị tinh thần mà dân tộc và loài người tạo ra.
Ba nguyên tắc ngắn gọn, súc tích đã kế thừa, xây dựng và phát triển nền văn hóa ngàn năm của dân tộc, tự tôn văn hóa dân tộc, khắc phục tư tưởng tự ti, tự phụ; nâng cao lòng yêu nước, chí khí anh hùng, độc lập, tự do. Đó là những phẩm chất cao quý của con người Việt Nam: yêu nước, đoàn kết, dũng cảm, sẵn sàng xả thân vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Đó là “tính đại chúng hóa”, nền văn hóa dân tộc do lớp lớp thế hệ người Việt Nam sáng tạo, xây đắp, bảo vệ, phát huy, nhận rõ và chống mọi chủ trương, hành động làm cho văn hóa xa rời hay gây hại đối với đồng bào quần chúng. Văn hóa mới, văn hóa cách mạng phải hướng mọi sáng tạo, mọi hoạt động phục vụ đông đảo quần chúng nhân dân, không ngừng nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân. Quán triệt sâu sắc tư tưởng nhân văn của Đảng, nghệ thuật vị nhân sinh; phản đối khuynh hướng nghệ thuật vị nghệ thuật xa rời thực tiễn, thủ tiêu hay sao nhãng ý chí đấu tranh cách mạng. Bảo đảm và nâng cao tính khoa học trong xây dựng nền văn hóa Việt Nam, làm cho văn hóa không ngừng được khoa học hóa, tiên tiến hóa, chống lại những gì làm cho văn hóa/sản phẩm văn hóa phản khoa học, phản tiến bộ, biết kế thừa và phát huy tinh hoa văn hóa nhân loại.
Tuy ngắn gọn, Đề cương về văn hóa đã trình bày rõ, đầy đủ những quan điểm, nguyên tắc, đường lối, chính sách văn hóa của Đảng với những nội dung cơ bản, có ý nghĩa khoa học và thực tiễn xây dựng nền văn hóa cách mạng do Đảng lãnh đạo; khẳng định tư duy, tầm nhìn, trí tuệ, bản lĩnh của Đảng ta về cách mạng. Đề cương là cơ sở lý luận căn bản cho cán bộ hoạt động văn hóa - tư tưởng trong cách mạng dân tộc dân chủ; như ngọn đèn pha soi rọi cho những người cộng sản và toàn dân nhìn thấy con đường mình đang đi và sẽ đi tới, động viên, thức tỉnh, dẫn đường giới trí thức, văn nghệ sĩ - những người nặng lòng với đất nước để cứu nước, cứu dân, hăng hái tham gia mặt trận văn hóa, tư tưởng, không bi quan, dao động, không bị ru ngủ bởi luận điệu sai trái, lừa gạt của chế độ phát xít- thực dân- phong kiến của tờ-rôt-kit. Đề cương văn hóa đã khẳng định: “Văn hóa dân tộc Việt Nam sẽ do cách mạng dân chủ giải phóng thắng lợi mà được cởi mở xiềng xích và sẽ đuổi kịp tân văn hóa dân chủ thế giới”[1].
2. Nền văn hóa mới Việt Nam có nhiều đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước
Trước khi Đề cương về văn hóa Việt Nam ra đời, tại Nghị quyết ngày 28-2-1943, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã nêu rõ quan điểm, chủ trương đẩy mạnh văn hóa. Trên cơ sở đó, cử các cán bộ có chuyên môn, kinh nghiệm hoạt động trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng về các địa phương như Hà Nội, Sài Gòn, Huế... để gây dựng phong trào văn hóa tiến bộ, văn hóa cứu quốc; tổ chức các nhóm “văn hóa tiên phong”, “nhóm nghiên cứu Chủ nghĩa Mác”, “nhóm nghiên cứu lịch sử Việt Nam”... hoạt động dưới hình thức công khai và bán công khai nhằm đoàn kết các nhà văn hóa, trí thức. Tại Hà Nội, Hội văn hóa Cứu quốc ra đời (năm 1943) do đồng chí Lê Quang Đạo chỉ đạo đã tập hợp đông đảo trí thức, văn nghệ sĩ hoạt động theo đường lối của Đảng và Chương trình của Mặt trận Việt Minh, nhất là tư tưởng chỉ đạo của Đề cương về văn hóa Việt Nam. Từ đó, tổ chức Hội đã phát triển rộng trên phạm vi cả nước với đội ngũ chủ chốt là trí thức, văn nghệ sĩ đã có nhiều đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp của Đảng và dân tộc dẫn đến thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Sau này, các nhà trí thức, văn nghệ sĩ hoạt động trong các Hội văn hoá cứu quốc đã trở thành đại biểu của Đại hội quốc dân Tân Trào, tham gia Ủy ban giải phóng dân tộc, Chính phủ lâm thời, được bầu vào Quốc hội khóa I của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, là thành viên Chính phủ chính thức, Ủy ban xây dựng kế hoạch kiến thiết quốc gia, đóng góp tích cực vào sự nghiệp kháng chiến kiến quốc.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ (ngày 03/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên 6 nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong đó có 2 nhiệm vụ cấp bách thuộc về văn hóa, đó là diệt giặc dốt và giáo dục tinh thần cho nhân dân”[2]. Cùng với đường lối kháng chiến, xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, phát triển kinh tế, Đảng đề ra chủ trương phát triển văn hóa: “Về văn hóa, tổ chức bình dân học vụ, tích cực bài trừ nạn mù chữ, mở đại học và trung học, cải cách việc học theo tinh thần mới, bài trừ cách dạy học nhồi sọ, cổ động văn hóa cứu quốc, kiến thiết nền văn hóa mới theo ba nguyên tắc: khoa học hóa, đại chúng hóa, dân tộc hóa”[3] (Chỉ thị ngày 25/11/1945). Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra những chủ trương cấp thiết là chống nạn mù chữ, nâng cao dân trí, tìm kiếm nhân tài: “Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại nhân dân chúng ta. Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xưng đáng với nước Việt Nam độc lập”[4]. Hồ Chí Minh mong muốn dân tộc Việt Nam “bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu” và “chúng ta là một dân tộc văn minh”. Tại Hội nghị văn hóa toàn quốc ngày 24/11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh vai trò của văn hóa “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”. Giá trị văn hóa mới với bản chất tiến bộ, tiên phong thúc đẩy sự phát triển của dân tộc, đất nước. Qua đó, quần chúng nhân dân hiểu thấu giá trị của độc lập, tự do và được thụ hưởng văn hóa mới, xây dựng đời sống mới, nhân dân trở thành người chủ đất nước, làm chủ xã hội.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Đảng chủ trương kháng chiến toàn diện trên các lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa. Văn hóa là mặt trận rất quan trọng trong sự nghiệp cứu nước với khẩu hiệu “Văn hóa hóa kháng chiến”, Chủ tịch Hồ Chí Mịnh khẳng định: “Văn hóa, văn nghệ là một mặt trận, anh chị em văn nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận ấy”, Hồ Chí Minh nêu rõ quan điểm: “Văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị”[5].
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Đại hội III của Đảng (tháng 9/1960) đã đề ra chủ trương tiến hành 3 cuộc cách mạng: quan hệ sản xuất, về khoa học - kỹ thuật, tư tưởng - văn hóa. Văn hóa - tư tưởng có vai trò to lớn trong cải biến, cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Cách mạng tư tưởng - văn hóa gắn liền với xây dựng con người của xã hội mới; đào luyện con người mới với tư cách chủ thể trong sự nghiệp sáng tạo xã hội mới. Hồ Chí Minh nêu rõ: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”[6]. Với chủ trương đó, Đảng và Nhà nước ta luôn chăm lo sự nghiệp “trồng người” với một nền giáo dục nghiêm cẩn, sáng tạo, ưu việt của hệ thống nhà trường xã hội chủ nghĩa, kết hợp với giáo dục trong gia đình, ngoài xã hội và tự học tập, tu dưỡng, rèn luyện. Vì vậy, đã có những lớp người sẵn sàng đem hết tài năng, công sức xây dựng đất nước và đi bất cứ đâu, sẵn sàng hy sinh cứu nước, nêu cao tinh thần tập thể, ý thức làm chủ với phong cách sống “mình vì mọi người, mọi người vì mình”.
Sau ngày đất nước thống nhất, Đại hội IV của Đảng (tháng 12/1976) xác định xây dựng con người mới, nền văn hóa mới, tiến hành đấu tranh chống tư tưởng và sản phẩm văn hóa phản động, độc hại. Đại hội V của Đảng (tháng 3/1982), chỉ rõ nền văn hóa mới là nền văn hóa có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính dân tộc, có tính đảng và tính nhân dân sâu sắc, thấm nhuần chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản. Với định hướng đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, nền văn hóa mới và con người mới xã hội chủ nghĩa - những con người năng động, sáng tạo, đổi mới tư duy, vượt qua những nhận thức bảo thủ, trì trệ, giáo điều, nóng vội để tạo nên sức mạnh tổng hợp, vượt qua khó khăn, thách thức, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, Đại hội VI chủ trương lấy nhiệm vụ đổi mới cơ chế, chính sách kinh tế làm trung tâm, đồng thời đặt cao vai trò của văn hóa thúc đẩy cải tạo xã hội và phát triển chế độ kinh tế vững mạnh. “Mỗi hoạt động văn hóa, văn nghệ đều phải tính đến hiệu quả xã hội, tác động tốt đến tư tưởng, tâm lý, tình cảm, nâng cao trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa và trình độ thẩm mỹ của nhân dân. Quan tâm đáp ứng nhu cầu, thị hiếu lành mạnh của các tầng lớp xã hội và các lứa tuổi”[7]. “Chống những tàn tích văn hóa phong kiến, thực dân, tư sản. Làm thất bại âm mưu và hoạt động của các thế lực thù địch biến văn hóa, văn nghệ thành phương tiện gieo rắc tâm lý bi quan và lối sống sa đọa. Bài trừ mê tín dị đoan, hủ tục”[8].
3. Đề cương về văn hóa Việt Nam vẫn còn nguyên giá trị được Đảng ta vận dụng, bổ sung, hoàn thiện trong sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế
Trong giai đoạn 1986-1994, lĩnh vực văn hóa, văn nghệ tiếp tục được Đảng, Nhà nước quan tâm sâu sắc, toàn diện hơn. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội lần thứ VII (tháng 6/1991) xác định nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, là một trong sáu đặc trưng cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa VII) lần đầu đưa ra khái niệm: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời là một mục tiêu của chủ nghĩa xã hội”. “Nền văn hóa mà Đảng ta lãnh đạo toàn dân xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Hội nghị Trung ương 5 (khóa VIII) ra Nghị quyết về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”. Đại hội IX của Đảng tiếp tục khẳng định: “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”. Đây không chỉ là những văn kiện mang tính đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng trên lĩnh vực văn hóa, mà còn thể hiện tư duy lý luận văn hóa một cách toàn diện và sâu sắc trong giai đoạn cách mạng mới.
Để thúc đẩy sự phát triển của văn học, nghệ thuật, Bộ Chính trị khóa X ra Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 16/6/2008 về “Tiếp tục xây dựng và phát triển văn học- nghệ thuật trong thời kỳ mới”. Nghị quyết nhấn mạnh: “Văn học- nghệ thuật là lĩnh vực rất quan trọng, đặc biệt tinh tế của văn hóa, là nhu cầu thiết yếu, thể hiện khát vọng chân, thiện, mỹ của con người; là một trong những động lực to lớn trực tiếp góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội và sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam. Văn học, nghệ thuật Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế phát triển toàn diện và mạnh mẽ, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ...”.
Đại hội X của Đảng (tháng 4/2006) khẳng định: “Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội”. Tinh thần cơ bản của Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) tiếp tục được khẳng định trong Văn kiện Đại hội X và XI của Đảng, đặc biệt được khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (sửa đổi, bổ sung năm 2011): “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội”. Trong định hướng phát triển, Đảng ta khẳng định: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”.
Xuất phát từ thực tiễn đất nước sau 30 năm đổi mới và phát triển, Hội nghị Trung ương 9 (khóa XI) đã thảo luận và ra Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 về “Xây dựng và phát triển văn hóa con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước”. Nghị quyết này tiếp tục thể hiện sự phát triển tư duy lý luận và sáng tạo của Đảng trong việc nhận thức về vị trí, vai trò của văn hóa, đặc biệt là yếu tố con người, việc xác định phương hướng, đặc trưng, tính chất, động lực và đặc thù của hoạt động xây dựng và phát triển văn hóa con người.
Đại hội XII của Đảng xác định: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân, thiện, mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học... Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển. Đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”.
Nghị quyết Đại hội XIII (tháng 1-2021) là bước tiến rất quan trọng trong nhận thức tầm cao và ý nghĩa của văn hóa khi nhấn mạnh: “Tập trung nghiên cứu và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực của con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới...”. Tiếp tục đổi mới toàn diện nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước về văn hóa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”.
Xây dựng phát triển văn hóa, xây dựng con người với những hệ giá trị và chuẩn mực là sự bảo đảm lành mạnh hóa đời sống xã hội, góp phần rất quan trọng trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tạo động lực để xây dựng và phát triển kinh tế. Tất cả đều hướng tới mục tiêu vì một nước Việt Nam hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc.
4. Nghệ An xây dựng con người văn hóa, gia đình văn hóa Nghệ An đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển
Thực hiện đường lối của Đảng về xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển, ngày 14/12/2016, tỉnh Nghệ An đã ban hành Nghị quyết 05-NQ/TU về xây dựng con người văn hóa, gia đình văn hóa Nghệ An đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển.
Đến nay, sự nghiệp xây dựng văn hóa, con người văn hóa, gia đình văn hóa Nghệ An có nhiều chuyển biến tích cực. Đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng lên, nhiều giá trị truyền thống tốt đẹp được phát huy, nhiều chuản mực đạo đức mới được hình thành, các hủ tục từng bước được khắc phục và đẩy lùi. Tinh thần đoàn kết, nhân nghĩa, lối sống “mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người” được phát huy mạnh mẽ qua các phong trào “Tết vì người nghèo”, “Lá lành đùm lá rách”, “Quỹ vì người nghèo”, “Khu dân cư chung tay vì người nghèo - không để ai bị bỏ lại phía sau”, ủng hộ đồng bào bão bị thiên tai, lũ lụt, phòng chống dịch bệnh...
Bản chất chịu thương, chịu khó, cần cù, tiết kiệm, chân chất, mộc mạc, bộc trực, thẳng thắn, đùm bọc, tương thân, tương ái... được duy trì, phát huy. Thể lực, tầm vóc cùng với sự thông minh, hiếu học của người Nghệ đã tạo nên thế hệ trẻ có hàm lượng tri thức cao, năng động, sẵn sàng tiếp nhận và sáng tạo nên những tiến bộ khoa học kỹ thuật, đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tiếp cận, lĩnh hội và thâm nhập nhanh với thể giới bên ngoài.
Môi trường văn hóa trong gia đình được quan tâm, góp phần gìn giữ các giá trị tốt đẹp của gia đình truyền thống, tiếp thu, bổ sung những giá trị mới, tiến bộ của gia đình hiện đại; phát huy các mối quan hệ trong gia đình, dòng họ, xây dựng gia đình hạnh phúc, gia đình văn hóa; phòng chống bạo lực gia đình đạt hiệu quả; lồng ghép, gắn với phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa", phong trào xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh và các phong trào thi đua của các tổ chức quần chúng với phương châm “lấy con người làm mục tiêu trung tâm” và “vì mục tiêu phát triển”. Thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo, chăm lo cho người nghèo và các hoạt động nhân đạo từ thiện; chăm lo chính sách người có công, người cao tuổi, người khuyết tật.
Nhiều gia đình gương mẫu, chấp hành tốt chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước, giúp đỡ cộng đồng và chăm lo đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội. Nhiều gia đình tiếp cận được những dịch vụ xã hội cơ bản, chất lượng cuộc sống ngày càng nâng cao. Bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em và chăm sóc người cao tuổi trong gia đình được coi trọng và có nhiều tiến bộ. Bình đẳng giới, quyền trẻ em, vai trò của phụ nữ trong gia đình và xã hội ngày càng được đề cao.
Truyền thống văn hóa, lịch sử được quan tâm giáo dục, với phương châm dạy làm người gắn liền với dạy chữ thông qua chương trình đưa nội dung văn hóa, dân ca Ví, Giặm, lịch sử dịa phương vào chương trình học. Công tác bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di sản văn hóa gắn với phát triển kinh tế du lịch được giữ gìn, phát huy.
Quan tâm xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh trên các lĩnh vực đời sống tư tưởng, văn hóa, giáo dục, y tế, thể thao, an sinh xã hội nhằm tạo điều kiện tối đa cho việc phát triến con người Nghệ An. Đẩy mạnh phong trào học tập suốt đời trong gia đình, dòng họ, cộng đồng. Môi trường văn hóa học đường được cải thiện.
Thường xuyên quan tâm xây dựng đời sống văn hóa trong kinh tế gắn với bảo vệ môi trường sinh thái, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc. Môi trường văn hóa kinh tế, nhất là văn hóa doanh nghiệp và văn hóa doanh nhân được xây dựng và phát huy với ý thức tôn trọng pháp luật, chữ tín, cạnh tranh lành mạnh vì sự phát triển bền vững. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với xây dựng con người văn hóa, gia đình văn hóa và chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa của nhân loại.
Hưởng ứng hoạt động Kỷ niệm 80 năm ra đời “Đề cương về văn hoá Việt Nam” (1943 - 2023), tháng 3/2023 Thường trực Tỉnh uỷ Nghệ An đã ban hành Kế hoạch tổ chức các hoạt động kỷ niệm 80 năm ra đời của Đề cương văn hoá Việt Nam, nhằm khẳng định nền tảng lý luận, giá trị, nguyên tắc cốt lõi của “Đề cương về văn hoá Việt Nam” góp phần khơi dậy khát vọng cống hiến, tạo động lực phát triển văn hoá, con người Việt Nam nói chung và Nghệ An nói riêng trong bối cảnh mới. Nhiều nội dung, hoạt động thiết thực có ý nghĩa như: Tổ chức Hội nghị gặp mặt trí thức, các nhà khoa học, văn nghệ sĩ; Toạ đàm (hội thảo) về chủ đề “Từ Đề cương về văn hoá Việt Nam đến lý luận văn nghệ Việt Nam thời kỳ đổi mới và hội nhập” và “80 năm Đề cương về văn hoá Việt Nam (1943 - 2023)”; Tìm hiểu văn hoá Việt Nam và truyền thống văn hoá xứ Nghệ, Tổ chức Hội thảo khoa học “Từ Đề cương về văn hóa Việt Nam - Định hướng chiến lược phát triển văn hóa tỉnh Nghệ An đến năm 2030”; Tuyên truyền, trưng bày, triển lãm; tổ chức sáng tác, công bố, phát hành các tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị về đề tài ca ngợi quê hương, đất nước, ca ngợi Đảng, Bác Hồ, văn hoá, con người Việt Nam, văn hoá, con người xứ Nghệ…; Xây dựng Nghị quyết về “Xây dựng, phát triển văn hóa Nghệ An đến năm 2030 đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững” và Đề án phát triển văn hóa tỉnh Nghệ An đến năm 2030; Tập huấn nội dung, quan điểm đổi mới của Đảng về văn hoá, văn nghệ trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; Kết luận của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hoá toàn quốc.
Chúng ta tự hào về những thành tựu và di sản cha ông ta để lại, đồng thời có trách nhiệm gìn giữ, bảo lưu và phát triển phù hợp với xu thế thời đại. Phát huy tinh thần đó, Đảng bộ Nghệ An đặt ra mục tiêu lớn về thực hiện thành công Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX nhiệm kỳ 2020-2025, trong đó, đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng con người văn hoá, gia đình văn hoá: “xây dựng con người văn hoá, gia đình văn hoá Nghệ An đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển. Bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hoá tiêu biểu; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá con người xứ Nghệ; tạo điều kiện để văn học - nghệ thuật phát triển đúng định hướng. Phát triển các loại hình thông tin truyền thông theo hướng đồng bộ, hiện đại. Đẩy mạnh phong trào thể dục, thể thao quần chúng và phát triển thể dục, thể thao thành tích cao...”.
80 năm đã đi qua nhưng những quan điểm, nguyên tắc, chủ trương đúng đắn, kịp thời của Đảng về văn hóa, văn nghệ đến nay vẫn vẹn nguyên giá trị và tinh thần thời đại sâu sắc, thể hiện tư duy, tầm nhìn và khát vọng của toàn Đảng, toàn dân nỗ lực, quyết tâm, đổi mới sáng tạo, cống hiến để vun đắp nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc, tạo sức mạnh, nguồn lực nội sinh để xây dựng nước Việt Nam phồn vinh và hạnh phúc./.
Kim Chi - Hồng Vui
Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, t.7, Nxb Chính trị quốc gia, H.2000, tr.318, 470.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2000, t.8, tr.1-3.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, t.8, Sđd, tr.20.
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.7.
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.7, Sđd, tr.246.
[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.13, Sđd, tr.66.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, t.47, Sđd, tr.426.
8 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, t.47, Sđd, tr. 427