Banner Tỉnh ủy Nghệ An (Home-latest-1)

Quế Phong: Kết quả 03 năm thực hiện Kết luận số 65-KL/TW của Bộ Chính trị về “tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW về công tác dân tộc trong tình hình mới”

Quế Phong là huyện vùng núi cao, biên giới nằm về phía Tây Bắc của tỉnh Nghệ An, có đường biên giới Việt - Lào dài 74,793km, là huyện cuối cùng nằm trên trục Quốc lộ 48, cách thành phố Vinh 180 km. Vị trí địa lý của huyện nằm trong khoảng 19o26' đến 20o vĩ độ Bắc, 104o30' đến 105o10' kinh độ Đông.

Phía Đông Bắc giáp huyện Th­ường Xuân, tỉnh Thanh Hoá; phía Nam giáp huyện Quỳ Châu; phía Tây Nam giáp huyện Tương Dư­ơng; phía Tây Bắc giáp huyện Sầm Tớ và Mường Quắn, tỉnh Hủa Phăn, n­ước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào. Diện tích tự nhiên của huyện là 188.842,91 ha, chiếm 11,3% diện tích tự nhiên của tỉnh, trong đó diện tích lúa nước khoảng 2.500 ha nhưng phân bố không đều, nằm rải rác giữa các vùng và các xã trong huyện. Có 12 xã và 01 thị trấn, với 107 thôn bản, trong đó 11 xã đặc biệt khó khăn (khu vực III). Tính đến 30/12/2022, trên địa bàn huyện có 16.151 hộ/75.149 khẩu; trong đó dân tộc thiểu số là 14.433 hộ (Thái 13.216 hộ, Khơ Mú 539 hộ, Mông 655 hộ, dân tộc khác 23 hộ); 67.983 khẩu đồng bào DTTS, chiếm 90,46% dân số toàn huyện (Thái 61.306 khẩu, chiếm 81,58%; Khơ Mú 2.657 khẩu, chiếm 3,54%; Mông 3.909 khẩu, chiếm 5,2%; dân tộc khác 111 khẩu, chiếm 0,14%). Cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hệ thống thông tin, liên lạc, giao thông đi lại còn nhiều khó khăn; trình độ dân trí của đồng bào DTTS hạn chế; thiên tai, dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi thường xẩy ra; buôn bán, vận chuyển, tàng trữ, sử dụng các chất ma túy diễn biến phức tạp; tình trạng học sinh bỏ học, nạn tảo hôn đối với con em trong đồng bào DTTS chưa được ngăn chặn triệt để; cuộc sống của đồng bào vùng sâu, biên giới nhiều thiếu thốn; tỷ lệ hộ nghèo cao; một số tập tục lạc hậu chậm được đổi mới. Nguồn vốn của Nhà nước đầu tư cho miền núi, vùng đồng bào DTTS chưa đáp ứng nhu cầu. Một số đồng bào DTTS thiếu đất sản xuất, trình độ áp dụng tiến bộ khoa học vào sản xuất, chăn nuôi còn hạn chế; một bộ phận đồng bào DTTS còn có tư tưởng trông chờ, ỷ lại, thiếu ý chí vượt khó vươn lên...

Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, sự quyết liệt trong tổ chức thực hiện của chính quyền, MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội từ huyện đến cơ sở, việc triển khai thực hiện Kết luận số 65-KL/TW, ngày 30/10/2019 của Bộ Chính trị về “Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc trong tình hình mới” trên địa bàn huyện Quế Phong có nhiều chuyến biến tích cực.

Ngày 13/01/2020, Ban Thường vụ Huyện ủy đã ban hành Kế hoạch số 193-KH/HU về triển khai thực hiện Kết luận số 65-KL/TW đồng thời đã tổ chức hội nghị triển khai, quán triệt, phổ biến cho cán bộ chủ chốt của huyện và đội ngũ báo cáo viên cấp huyện, cơ sở. Có 100% tổ chức đảng trực thuộc; Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội cấp huyện đã triển khai xây dựng kế hoạch và tổ chức hội nghị quán triệt, triển khai thực hiện Kết luận số 65-KL/TW và các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của cấp uỷ địa phương, đơn vị đến cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên và các tầng lớp nhân dân. Thông qua việc xây dựng chương trình công tác, chương trình kiểm tra giám sát, cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp đưa nội dung công tác dân vận, công tác dân tộc vào chương trình làm việc, chương trình kiểm tra, giám sát của cấp ủy. Chỉ đạo mở được 14 lớp tập huấn nghiệp vụ công tác dân vận cho hơn 980 lượt người tham gia, trong đó có nội dung triển khai, phổ biến nội dung Kết luận số 65-KL/TW đến cán bộ phụ trách công tác dân vận của các cơ quan, đơn vị và trưởng, phó khối dân vận xã, thị trấn; cán bộ MTTQ và tổ chức CT-XH các cấp trên địa bàn huyện. Ban Thường vụ Huyện uỷ tổ chức giám sát 01 cuộc về kết quả quán triệt, triển khai thực hiện Kết luận số 65-KL/TW tại một đảng bộ xã; lồng ghép nhiều cuộc kiểm tra, giám sát tại 23 lượt xã, thị trấn, cơ quan, đơn vị trên địa bàn huyện.

Tập trung chỉ đạo thực hiện Quyết định số 1719/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030; Kế hoạch số 171/KH-UBND ngày 11/3/2022 của UBND tỉnh về triển khai Quyết định số 1719/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ trên địa bàn tỉnh Nghệ An... và nhiều chương trình mục tiêu quốc gia khác. Từ đó, kinh tế - xã hội tiếp tục chuyển biến tích cực, đạt mức tăng trưởng khá trên cả 03 khu vực nông nghiệp, công nghiệp xây dựng và thương mại, dịch vụ; quốc phòng, an ninh tiếp tục được giữ vững, các chỉ tiêu trọng yếu đều đạt và vượt kế hoạch đề ra; các chính sách người có công, chính sách an sinh xã hội, công tác giảm nghèo tiếp tục được quan tâm thực hiện tốt. Tổng thu ngân sách trên địa bàn năm 2022 là 42,42 tỷ đồng tăng 15,76 tỷ đồng bằng 159,11% so với năm 2019; thu nhập bình quân đầu người (theo giá hiện hành) 34,03 triệu đồng/người, tăng 7,04 triệu đồng, bằng 126,08% so với năm 2019; tỷ lệ hộ toàn huyện giảm nghèo từ 26,49% xuống còn 14,4% so với năm 2019 (tỷ lệ nghèo theo chuẩn cũ); tỷ lệ hộ nghèo DTTS bình quân hàng năm giảm 4-5%, đến cuối năm 2022 là 39,43%; tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội trên địa bàn năm 2022 đạt 852 tỷ đồng, tăng 52 tỷ đồng, bằng 106,5% so với năm 2019; hiện có 902 lồng nuôi trồng thuỷ sản đạt hiệu quả cao.  

Công tác bảo vệ rừng tự nhiên, khoanh nuôi, chăm sóc và trồng rừng đạt kết quả tích cực (trồng mới được 950ha rừng tập trung); không để xảy ra cháy rừng trên địa bàn; tăng cường kiểm soát, bảo vệ và phòng chống khai thác, vận chuyển và sử dụng lâm sản trái pháp luật; duy trì độ che phủ rừng ở mức 77,5%. Chương trình MTQGXD nông thôn mới tiếp tục được quan tâm chỉ đạo thực hiện; các mô hình sản xuất có hiệu quả kinh tế cao được nhân rộng tại các xã. Số tiêu chí nông thôn mới bình quân đạt chuẩn là 13,33 tiêu chí/xã (tăng 1,93 tiêu chí so với năm 2019). Đến hết năm 2022, toàn huyện có 11 xã đạt từ 11 đến 16 tiêu chí, chiếm 91%; có thêm 06 thôn bản đạt nông thôn mới.

Quan tâm cải thiện môi trường đầu tư, các hoạt động xúc tiến đầu tư nhằm thúc đẩy thu hút đầu tư trên địa bàn huyện; chú trọng nghiên cứu phát triển các sản phẩm hàng hóa đặc trưng, có tính cạnh tranh cao, phù hợp với lợi thế, tiềm năng của huyện. Tích cực huy động các nguồn vốn đầu tư công, thực hiện hiệu quả lồng ghép các nguồn lực đầu tư để đẩy mạnh đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng trên địa bàn huyện. Tổng nguồn lực đầu tư cho huyện giai đoạn 2019-2022 hơn 304,517 tỷ, thực hiện sửa chữa, nâng cấp và xây dựng mới 223 công trình.

            Cấp giấy CNQSDĐ, giao đất ở cho các hộ gia đình, cá nhân, công tác giải phóng mặt bằng phục vụ các dự án đầu tư được thực hiện đúng quy định, đảm bảo đầy đủ quyền lợi cho người dân. Đã thực hiện giao đất lâm nghiệp gắn với giao rừng với tổng diện tích hơn 27.465 ha. Tiếp tục tăng cường quản lý, bảo vệ khoáng sản chưa khai thác, quản lý đất đai tại các khu vực khoáng sản đã đóng cửa mỏ; tăng cường các biện pháp bảo vệ môi trường như trang bị xe thu gom rác thải, xây dựng lò đốt rác thải mini tại các hộ gia đình; giám sát chặt chẽ để phát hiện, xử lý kịp thời và ngăn chặn các hoạt động khai thác trái phép cát, sỏi trên địa bàn huyện.

Tiếp tục thực hiện đồng bộ các hoạt động xúc tiến, phát triển du lịch; công tác quản lý các điểm du lịch, chất lượng dịch vụ du lịch được nâng lên, tư duy làm du lịch được thay đổi rõ rệt. Ban hành Đề án phát triển du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng gắn với bảo tồn phát huy các giá trị văn hóa dân tộc. Ra mắt 02 mô hình câu lạc bộ văn hoá văn nghệ dân gian tại xã Châu Kim và dân ca, nhạc vũ tại thị trấn Kim Sơn; duy trì hoạt động 39 câu lạc bộ văn hóa, thể thao; có 04/13 xã, thị trấn có thiết chế văn hoá thể thao đạt chuẩn, đạt 30,7%; 23 thôn bản có nhà văn hóa, khu thể thao đạt chuẩn, đạt 21,5%; 91,59% thôn, bản có nhà sinh hoạt cộng đồng. Đẩy mạnh phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá" gắn với xây dựng các mô hình văn hóa, thể thao cơ sở; duy trì và phát huy hiệu quả 27 mô hình “Địa chỉ tin cậy”; 03 CLB “Phòng chống bạo lực gia đình, phòng chống xâm hại phụ nữ - trẻ em”; 03 CLB “Gia đình hạnh phúc”; 16 CLB “Phụ nữ với pháp luật”; 14 CLB “Xây dựng gia đình 5 không 3 sạch”; 02 CLB “Hỗ trợ cộng đồng phòng chống mua bán người”; 01 câu lạc bộ phòng chống tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống. Quan tâm, kịp thời thu hút nhiều chương trình, dự án xây dựng cơ sở vật chất phục vụ cho văn hoá, thông tin - thể thao của các xã, thị trấn góp phần đưa thông tin về cơ sở, tuyên truyền những chủ trương, chính sách, vận dụng các tiến bộ KHKT vào sản xuất; công tác cải tạo tập tục lạc hậu nhất là trong việc cưới, việc tang, ăn ở hợp vệ sinh, nạn tảo hôn... đã có những chuyển biến rõ nét.

Trong năm 2022, đã hoàn thành chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19 theo Nghị quyết số 68/NQ-CP của Chính phủ; Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính Phủ và Quyết định số 22/2021/QĐ-UBND của UBND tỉnh. Tập trung đẩy mạnh triển khai các chính sách hỗ trợ người nghèo, thực hiện có hiệu quả các chính sách hỗ trợ người nghèo; 100% đồng bào DTTS ở khu vực các xã, thôn, xóm, bản đặc biệt khó khăn được cấp miễn phí bảo hiểm y tế. Công tác đào tạo, bồi dưỡng, dạy nghề ở vùng dân tộc và miền núi tiếp tục được quan tâm chỉ đạo thực hiện có hiệu quả; mở được 35 lớp dạy nghề cho lao động nông thôn với hơn 1.290 học viên, tổng kinh phí 3.463 triệu đồng; tạo việc làm bình quân hàng năm từ 600 đến 800 lao động…; hỗ trợ 444 người đi xuất khẩu lao động có thời hạn tại nước ngoài. Các chương trình dự án nghe, nhìn từng bước được đầu tư lắp đặt; sóng phát thanh cơ bản đã phủ kín các vùng trên địa bàn huyện (100%). Cấp phát radio cho các già làng, trưởng bản, người có uy tín; hỗ trợ lắp đặt bộ đầu chảo thu truyền hình vệ tinh cho các hộ nghèo, cận nghèo; tỷ lệ hộ được xem truyền hình toàn huyện đạt khoảng 97-98%. Hoạt động khoa học, công nghệ đang từng bước hướng vào mục tiêu đưa tiến bộ khoa học và công nghệ vào phục vụ sản xuất và đời sống, nâng cao hiệu quả công tác trên các lĩnh vực. Đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp công nghệ cao và cải cách hành chính.

Chất lượng giáo dục ngày càng được nâng lên (có 13/13 xã, thị trấn đạt chuẩn phổ cập GDMN, tỷ lệ huy động trẻ 6 tuổi vào lớp 1 đạt trên 100%, duy trì sỹ số đến cuối năm học đạt trên 98%, số phòng học được kiên cố đạt trên 80%); đã có 29 trường đạt chuẩn Quốc gia, đạt 65,9%; tỷ lệ trẻ các lớp mầm non đến lớp đạt 81,45%. Bước đầu hình thành một số mô hình khuyến học hiệu quả trong các cơ quan, dòng họ, thôn bản. Thực hiện kịp thời Chính sách theo Quyết định 45/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ; hàng năm các cơ quan, đơn vị; thôn, bản, khối, xóm được tiếp nhận đủ các ấn phẩm báo, tạp chí, chuyên đề theo quy định. Thực hiện tốt công tác y tế dự phòng, 98,5% trẻ dưới 1 tuổi được tiêm phòng đầy đủ; bệnh sốt rét và một số bệnh dịch khác được khống chế. Y tế cơ sở được củng cố, cơ sở vật chất, trang thiết bị được bổ sung từng bước đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh cho Nhân dân; 12/13 xã, thị trấn có bác sỹ và 100% số thôn bản có cán bộ y tế, có 12 xã đạt bộ tiêu chí Quốc gia về y tế. Tỷ lệ sinh đến hết năm 2022 còn 16,78%o, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi giảm xuống còn 17%.

Thực hiện tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ phụ trách công tác dân tộc cấp huyện và cơ sở; ưu tiên người DTTS trong công tác cán bộ; tăng cường bố trí cán bộ trẻ, năng lực về làm lãnh đạo ở cơ sở; hàng năm có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ cơ sở. Duy trì và phát huy hiệu quả 107 già làng và người uy tín trong cộng đồng DTTS; thực hiện kịp thời các chính sách theo Quyết định 12/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.

Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn ổn định, không để đột xuất, bất ngờ xảy ra; an ninh biên giới được giữ vững; thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, công tác quân sự địa phương đạt hiệu quả cao. Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ huấn luyện, diễn tập chiến đấu trị an, giáo dục quốc phòng và an ninh, tuyển quân và xây dựng cơ sở ATLC-SSCĐ. Tăng cường đấu tranh triệt phá nhiều đường dây, tụ điểm, đối tượng phạm tội ma tuý, các ổ nhóm trộm cắp tài sản, hoạt động tệ nạn xã hội. Tuyên truyền nâng cao ý thức cảnh giác cho Nhân dân, gắn với phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Thực hiện tốt công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đúng pháp luật. Công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo được tiến hành kịp thời, không để xảy ra “điểm nóng”, tạo môi trường thuận lợi phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và ổn định đời sống của Nhân dân.

Tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết, quan hệ hữu nghị đặc biệt với huyện Sầm Tớ và Mường Quắn (Lào); thực hiện tốt chế độ giao ban xã, huyện, các ngành nội chính với Bạn; giải quyết tốt các vấn đề về di dịch cư, hồi cư, xâm canh... góp phần bảo vệ an ninh biên giới và phát triển kinh tế - xã hội của huyện.

Công tác dân vận chính quyền, quy chế dân chủ cơ sở gắn với xây dựng điểm sáng dân vận chính quyền, điểm sáng QCDCCS được quan tâm chỉ đạo; xây dựng được 65 điểm sáng DVCQ, 46 điểm sáng QCDCCS. Tổ chức tốt giám sát và phản biện xã hội theo Quyết định 217-QĐ/TW và tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền theo Quyết định 218-QĐ/TW của Bộ Chính trị; đã tổ chức 258 cuộc giám sát (cấp huyện 88 cuộc, cơ sở 172 cuộc). Đẩy mạnh thực hiện phong trào thi đua “Dân vận khéo” gắn với thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về "Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh", xây dựng và nhân rộng các mô hình “Dân vận khéo” trên tất cả các lĩnh vực, đời sống xã hội, trọng tâm là vùng DTTS (toàn huyện xây dựng được 490 mô hình “Dân vận khéo”).

Như vậy, sau 03 năm thực hiện Kết luận số 65-KL/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về “công tác dân tộc trong tình hình mới”, huyện Quế Phong đã đoàn kết thống nhất, cộng sự của cả hệ thống chính trị; Nhân dân các dân tộc trong huyện luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành của Nhà nước và chính quyền các cấp; nhiều chương trình, dự án, chính sách dân tộc được Trung ương, tỉnh quan tâm đầu tư tập trung xóa đói, giảm nghèo, ổn định cuộc sống nhân dân. Đội ngũ cán bộ đồng bào DTTS trong bộ máy hệ thống chính trị ngày càng được tăng cường, phát triển về số lượng và chất lượng. Nhận thức, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, sự đồng thuận của xã hội về công tác dân tộc và công tác dân vận vùng đồng bào DTTS ngày càng được quan tâm; tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chế độ chính sách dân tộc đối với vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc và miền núi. Đời sống nhân dân nói chung, đồng bào DTTS nói riêng từng bước được cải thiện nâng cao, góp phần giảm nghèo, thể hiện mối quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với Nhân dân ở vùng đồng bào DTTS./.

                                              Phan Thanh Đoài 

Phó Trưởng ban Dân vận Tỉnh ủy 

Tin cùng chuyên mục

Công tác tham mưu xây dựng Đảng về chính trị ở Nghệ An – Thực trạng, những vấn đề đặt ra và giải pháp

Công tác tham mưu xây dựng Đảng về chính trị ở Nghệ An – Thực trạng, những vấn đề đặt ra và giải pháp


Phát huy bản sắc văn hóa, sức mạnh con người xứ Nghệ làm nguồn lực nội sinh cho sự phát triển theo tinh thần Nghị quyết số 39-NQ-TW

Phát huy bản sắc văn hóa, sức mạnh con người xứ Nghệ làm nguồn lực nội sinh cho sự phát triển theo tinh thần Nghị quyết số 39-NQ-TW


Đảng bộ Nghệ An tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị

Đảng bộ Nghệ An tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị


Công tác dân vận triển khai thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị về về xây dựng và phát triển tỉnh Nghệ An

Công tác dân vận triển khai thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị về về xây dựng và phát triển tỉnh Nghệ An


Kết quả thực hiện Đề án số 07-ĐA/TU về Đổi mới, nâng cao hiệu quả tiếp xúc, đối thoại và thực hiện kết luận của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền sau tiếp xúc, đối thoại với Nhân dân

Kết quả thực hiện Đề án số 07-ĐA/TU về Đổi mới, nâng cao hiệu quả tiếp xúc, đối thoại và thực hiện kết luận của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền sau tiếp xúc, đối thoại với Nhân dân


Kết quả 02 năm thực hiện Đề án số 04-ĐA/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về công tác dân vận chính quyền

Kết quả 02 năm thực hiện Đề án số 04-ĐA/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về công tác dân vận chính quyền


10 nhiệm vụ trọng tâm hướng tới mục tiêu đưa địa bàn Nghệ An ra khỏi địa bàn trọng điểm, phức tạp về ma túy

10 nhiệm vụ trọng tâm hướng tới mục tiêu đưa địa bàn Nghệ An ra khỏi địa bàn trọng điểm, phức tạp về ma túy


Công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức ở Đảng bộ Nghệ An qua gần 40 năm đổi mới đất nước

Công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức ở Đảng bộ Nghệ An qua gần 40 năm đổi mới đất nước


Kết quả 5 năm thực hiện Chỉ thị số 19-CT/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy

Kết quả 5 năm thực hiện Chỉ thị số 19-CT/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy


Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng thực hiện hiệu quả chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển tỉnh Nghệ An góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết số 39-NQ/TW

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng thực hiện hiệu quả chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển tỉnh Nghệ An góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết số 39-NQ/TW


Kết quả 9 năm thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TU, ngày 18/9/2014 về xây dựng, phát triển thị xã Hoàng Mai đến năm 2020 và những năm tiếp theo

Kết quả 9 năm thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TU, ngày 18/9/2014 về xây dựng, phát triển thị xã Hoàng Mai đến năm 2020 và những năm tiếp theo


Kết quả 15 năm thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW về công tác thanh niên ở Nghệ An

Kết quả 15 năm thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW về công tác thanh niên ở Nghệ An


Kết quả 05 năm thực hiện Chỉ thị số 21-CT/TW về công tác phụ nữ trong tình hình mới ở Nghệ An

Kết quả 05 năm thực hiện Chỉ thị số 21-CT/TW về công tác phụ nữ trong tình hình mới ở Nghệ An


Một số kinh nghiệm qua 10 năm thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW về "Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới" ở Nghệ An

Một số kinh nghiệm qua 10 năm thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW về "Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới" ở Nghệ An


Kết quả 10 năm thực hiện Quyết định số 218-QĐ/TW về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền

Kết quả 10 năm thực hiện Quyết định số 218-QĐ/TW về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền